Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàn Huyền”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Hoàn Huyền''' (桓玄) ([[369]]-[[404]]), [[tự]] là '''Kính Đạo''' (敬 道), hiệu là Linh Bảo (灵宝), danh xưng chính thức là Sở Vũ Điệu Đế (楚 武 悼 帝), là một lãnh chúa quân phiệt thời [[Nhà Tấn|Đông Tấn]] (265-420). Ông từng là Đại tư mã của Đông Tấn, sau chiếm ngôi hoàng đế của nhà Tấn và tự xưng hoàng đế, cải quốc hiệu là Sở vào năm 403, nhưng đã bị tướng Đông Tấn [[Lưu Dụ]] khởi binh chống lại sau đó bị [[Phùng Thiên]] giết chết năm 404. Ông là con trai út của danh tướng [[Đông Tấn]] [[Hoàn Ôn]].
 
==Xuất thân==
Hoàn Huyền sinh năm 369, là con trai út của danh tướng Đông Tấn Đại tư mã Nam Quận Huyền Vũ Công [[Hoàn Ôn]] và mẹ là Nam Khang công chúa của nhà Đông Tấn Tư Mã Hưng Nam, con gái của [[Tấn Minh Đế]]. Từ nhỏ, ông đã được thân phụ hết sức sủng ái.
 
Năm 373, Hoàn Ôn lâm bệnh chết, có di mệnh giao binh quyền lại cho em út là Hoàn Xung. Tước vị Nam Quận công do con trai trưởng của Hoàn Ôn là Hoàn Hi tập tước, nhưng sau khi nghe binh quyền đã giao cho Hoàn Xung, đã cùng em trai là Hoàn Tế và chú ruột là Hoàn Bí âm mưu giết Hoàn Xung đoạt lại binh quyền. Sự việc thất bại, Hoàn Hi, Hoàn Tế và Hoàn Bí đều bị bắt và bị lưu đày. Hoàn Xung bấy giờ bố cáo Hoàn Ôn mong muốn giao quyền thừa kế cho Hoàn Huyền. Do đó Hoàn Huyền lúc đó mới 5 tuổi đã được kế thừa tước vị Nam Quận Công với thái ấp gần trùng với [[Kinh Châu]], [[Hà Bắc]] ngày nay.
 
==Xây dựng thế lực==
Hoàn Huyền dưới sự hướng dẫn của chú mình, xứng đáng là kế thừa được sự nghiệp của cha. Năm 184, Năm 384, Hoàn Xung chết, Tể tướng Tạ An phân binh quyền do Hoàn Xung cai quản cho 3 người cháu Hoàn Xung. Không lâu sau, Tạ An cũng bị thất thế và chết ngay năm sau đó (385). Cuộc tranh trành quyền lực triều đình nổ ra giữa các gia tộc lớn gồm họ Tạ, họ Vương, và cả hoàng gia Tư Mã. Trong những điều kiện đó, gia tộc họ Hoàn, mà đại diện là Hoàn Huyền, trở thành một đối tượng lôi kéo để các bên chiếm được ưu thế.
 
Năm 391, Hoàn Huyền được phong làm Thái tử Tẩy mã<ref>Một chức quan hầu cận Thái tử, khi nào Thái tử đi ra thì cưỡi ngựa đi trước.</ref> khi mới 23 tuổi. Chỉ một năm sau, được bổ làm Thái thú Nghĩa Hưng (nay thuộc Nghi Hưng, [[Giang Tô]]). Tuy nhiên, Hoàn Huyền không thỏa mãn, từ quan trở về lãnh địa Nam Quận (nay thuộc [[Giang Lăng]], [[Hồ Bắc]]) củng cố thế lực.
 
Năm 397, Thượng thư Bộc xạ Vương Quốc Bảo, Kiến Oai Tướng quân Vương Tự mưu với Nhiếp chính là Cối Kê vương [[Tư Mã Đạo Tử]] tước bớt binh quyền các phương trấn. Thứ sử 2 châu Thanh Duyện là Vương Cung bất mãn khởi binh, Hoàn Huyền cùng Thứ sử Kinh Châu Ân Trọng Kham hưởng ứng. Thế lực quân phiệt hùng mạnh, cuối buộc triều đình phải giết Vương Quốc Bảo và Vương Tự để xoa dịu thế lực quân phiệt.
 
==Cát cứ==
Năm 398, Hoàn Huyền ép triều đình phải phong cho mình chức Thứ sử Quảng Châu. Nhiếp chính Tư Mã Đạo Tử bất đắc dĩ phải chấp thuận yêu cầu, giao toàn quyền cai quản hành chính và quân sự cho Hoàn Huyền. Tuy vậy, Hoàn Huyền không vội nhậm chức và tiếp tục phát triển thế lực ở lãnh địa mình. Nhân việc Thứ sử Dự Châu Sử Dữu Khải bất mãn khởi binh, lấy danh nghĩa thảo phạt Tiêu vương Tư Mã Thượng Chi, Hoàn Huyền cùng Âm Trọng Kham, Thứ sử Giang Châu Vương Du, tôn Vương Cung làm minh chủ, cùng khởi binh.
 
Tuy nhiên, không lâu sau, Vương Cung bị quân Bắc phủ binh do Lưu Lao Chi đánh bại rồi giết chết. Hoàn Huyền thấy vậy bèn lui binh. Triều đình bèn đưa biểu chiêu an và phong cho Hoàn Huyền làm Thứ sử Giang Châu (nay thuộc Cửu Giang, [[Giang Tây]]). Hoàn Huyền, Ân Trọng Kham, Dương Thuyên Kỳ 3 người được triều đình phái đi thảo phạt các phương trấn. Dù các quân phiệt đều có dã tâm riêng của mình, nhưng tạm thời phải liên kết với nhau; Hoàn Huyền xuất thân danh gia vọng tộc, được các quân phiệt tôn làm minh chủ. Khi đó, Hoàn Huyền mới 29 tuổi, trở thành quân phiệt mạnh nhất, phát sinh kiêu ngoại và dã tâm soán đoạt ngôi vị.
 
Bấy giờ, thế cục Đông Tấn rất hỗn loạn. Trong triều thì cha con Tư Mã Đạo Tử và Tư Mã Nguyên Hiển chuyên quyền. Ngoại trấn có nhóm Hoàn Huyền, Ân Trọng Kham, Dương Thuyên Kỳ, Lưu Lao Chi, Tư Mã Thượng Chi cát cứ, chinh phạt lẫn nhau.
 
Tháng 12 năm 399, Hoàn Huyền phát binh đánh Giang Lăng, Thứ sử Kinh Châu Ân Trọng Kham bị giết chết, cùng Thứ sử Ung Châu Dương Thuyên Kỳ cát cứ một dãy trung du [[Trường Giang]]. Năm 400, Tư Mã Đạo Tử bất đắc dĩ phải phong cho Hoàn Huyền làm Đô đốc 8 châu Kinh, Ti, Ung, Tần, Lương, Ích, Ninh, Giang; cai quản binh quyền 8 quận, Hậu tướng quân, Thứ sử 2 châu Kinh Giang, được phong cờ tiết.
 
Năm 401, Hoàn Huyền, đã kiểm soát hơn 2/3 lãnh thổ Đông Tấn, tiến quân về phía đông, chiếm được Kinh thành Kiến Khang, xử tử cả nhà Tư Mã Nguyên Hiển cùng Tư Mã Đạo Tử, đánh dẹp Lưu Lao Chi, đoạt binh quyền từ tay Lưu Lao Chi giao cho anh họ Hoàn Tu. Lực lượng Bắc phủ binh của Lưu Lao Chi không muốn giao chiến và Lưu Lao Chi buộc phải tự sát. Hoàn Huyền dẫn binh vào Kinh đô, tự làm Thái úy.
 
==Cướp ngôi Đông Tấn==
==Kết cục==
 
==Chú thích==
{{reflist}}
 
{{Thời gian sống|Sinh=369|Mất=404}}