Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tống Cao Tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 51:
| tôn giáo = [[Phật giáo]]
}}
'''Tống Cao Tông''' ([[chữ Hán]]: 宋高宗, [[12 tháng 6]] năm [[1107]] - [[9 tháng 11]] năm [[1187]]), tên húy là '''Triệu Cấu''' ([[chữ Hán]]: 趙構), [[Tên chữ (người)|tên tự]] là '''Đức Cơ''' (德基), là vị [[
Tống Cao Tông là con trai thứ chín của [[Tống Huy Tông|Tống Huy Tông Triệu Cát]],
Ngay sau khi vừa lên ngôi, Tống Cao Tông đã lại phải đối mặt với sự xâm lược của người Kim. Trước sự tấn công dữ dội của kẻ địch, ông phải lần lượt bỏ hết đất này đến đất khác, chạy về miền nam rồi lại chạy ra tận biển. Toàn bộ vùng Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam bị người Kim chiếm mất. Trong khi đó ở miền nam vào năm [[1129]], Cao Tông bị các tướng là [[Miêu Phó]] và [[Lưu Chính Ngạn]] bức ép phải nhường ngôi cho thái tử [[Triệu Phu]], sử gọi đó là Miêu, Lưu binh biến. Nhưng Cao Tông với sự phò tá của các tướng [[Hàn Thế Trung]] và [[Trương Tuấn (nhà Tống, sinh 1086)|Trương Tuấn]] đã nhanh chóng dẹp loạn và trở lại ngôi vua. Tuy nhiên ông vẫn phải liên tiếp chạy dài trước sự truy đuổi của người Kim, đến năm [[1131]] mới định đô tại Lâm An phủ<ref>Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc hiện nay</ref>. Dưới sự thống lĩnh của các tướng tài như [[Nhạc Phi]], [[Hàn Thế Trung]], [[Ngô Lân]], [[Lưu Kĩ]], [[Trương Tuấn (nhà Tống, sinh 1086)|Trương Tuấn]]..., quân Tống dần nắm lại ưu thế và kiểm soát lại toàn bộ miền nam. Về sau năm [[1138]], qua nỗ lực ngoại giao của triều Tống, Vua Kim đồng ý trả lại vùng Hà Nam gồm ba kinh là Đông Kinh, Tây Kinh, Nam Kinh về Trung Quốc. Nhưng đến năm [[1140]], Kim hủy bỏ minh ước, tiến hành nam xâm, chiếm lại vùng [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]] và [[Thiểm Tây]], nhưng gặp trở ngại trước tướng Tống là [[Nhạc Phi]]. Tuy nhiên lúc đó Cao Tông trọng dụng gian thần [[Tần Cối]], muốn nhanh chóng nghị hòa để đưa hài cốt tiên đế và mẹ là Vi thái hậu về nước, nên quyết tâm nhân nhượng với người Kim. Sang năm [[1142]], [[Nhạc Phi]] bị triệu về kinh rồi bị [[Tần Cối]] hãm hại, quân Kim lại nam hạ, Cao Tông nghe lời Tần Cối, ký kết Thiệu Hưng hòa nghị, chấp nhận xưng thần, cắt đất từ Đường châu, Đặng châu, Thương châu cho triều Kim, biên giới hai nước dời đến tận Hoài Hà. Mỗi năm phải cống nạp 25 vạn lạng bạc, 25 vạn tấm lụa, đổi lại Vua Kim cho đưa Vi thái hậu cùng hài cốt của nhị đế về nam. Từ đó nam bắc hòa hảo trong mười mấy năm.
Dòng 59:
Từ sau hòa ước Thiệu Hưng, [[Tần Cối]] trở thành kẻ độc đoán chuyên quyền, mưu hại trung thần, lấn át bề trên có mưu đồ khác. Mãi đến khi Tần Cối chết đi ([[1155]]), thì nỗi lo của triều đình mới được hóa giải. Lúc đó ở miền bắc, [[Hoàn Nhan Lượng]] có ý đồ diệt Tống, thống nhất Trung Quốc. Năm [[1161]], hai bên lại giao chiến trong trận Thái Thạch, kết quả quân Tống thắng lớn, Hoàn Nhan Lượng bị phản tặc giết chết, triều Tống lần đầu tiên nắm được ưu thế trong cục diện Nam Bắc và chuẩn bị cho cuộc [[Long Hưng bắc phạt|bắc phạt Long Hưng]].
Tống Cao Tông chỉ có một người con trai duy nhất là Nguyên Ý thái tử [[Triệu Phu]] đã mất khi mới 3 tuổi, về sau do vất vả trên đường chạy giặc đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến [[Sinh lý học con người|sinh lý]], nên hậu cung không thể mang thai được nữa. Ông chọn trong tông thất những hậu duệ của [[Tống Thái Tổ]], cuối cùng chọn được Triệu Bá Tông và lập Bá Tông làm
Ông là
== Thời Huy Tông ==
Dòng 243:
[[Tập tin:Quatrain on Heavenly Mountain.jpg|thumb|right|250px|Một tác phẩm thư pháp của Tống Cao Tông]]
Không lâu sau khi tức vị, Hiếu Tông tôn hiệu cho Thượng hoàng là '''Quang Nghiêu Thọ Thánh Hiến Thiên Thể Đạo Tính Nhân Thành Đức Kinh Vũ Vĩ Văn Thiệu Nghiệp Hưng Thống Minh Mô Thịnh Liệt
Khi đó
Tháng 2 ÂL năm [[1165]], Hiếu Tông triều kiến Đức Thọ cung và đích thân đi theo
Tháng 4 ÂL năm [[1172]], Tả thừa tướng [[Ngu Doãn Văn]] bị ngự sử [[Tiêu Chi Mẫn]] đàn hặc là chuyên quyền, bất công, Doãn Văn dâng sớ xin tội. Thượng hoàng biết chuyện, khuyên Hiếu Tông không nên đuổi Doãn Văn, vì thế Hiếu Tông cho đuổi Tiêu Chi Mẫn và vẫn dùng Doãn Văn. Tuy nhiên chỉ ít lâu sau thì ông này lại xin từ chức<ref>''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷143|quyển 143]]</ref>
Tháng 10 ÂL năm Thuần Hi thứ 14 đời [[Tống Hiếu Tông]],
== Danh sách các Tể tướng thời Tống Cao Tông ==
Dòng 277:
==Gia đình==
===Hậu phi===
* [[Hình Bỉnh Ý|Hiến Tiết
* [[Hiến Thánh Từ Liệt hoàng hậu|Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu]] ''Ngô Thược Phân'' (宪圣慈烈皇后吴芍芬; 1115 - 1197). Từ vị ''Hòa Nghĩa Quận
* [[Trương Quý phi]] (张贵妃; ? - 1190), người [[Tường Phù]], phủ [[Khai Phong]]. Khi mới nhập cung được phong làm ''Vĩnh Gia Quận
* [[Phan Hiền phi]] (潘賢妃; ? - 1148), người [[Khai Phong (huyện)|Khai Phong]], cha là [[Phan Vĩnh Thọ]] (潘永壽), ''Trực hàn lâm y cục quan'' (直翰林醫局官), sinh ra ''Nguyên Ý Thái tử'' [[Triệu Phu]] (趙旉). Dung mạo xinh đẹp lại sinh được trưởng tử nên rất được sủng ái. Năm 1127, Cao Tông lên ngôi muốn sách lập Phan thị làm Hoàng hậu nhưng [[Lã Hảo Vấn]] đã ngăn cản nên chỉ phong bà làm ''Hiền phi'' (賢妃).
* [[Trương Hiền phi]] (張賢妃; ? - 1142), ban đầu là ''Tài nhân'' (才人), năm 1130 lên vị ''Tiệp dư'' (婕妤), sau phong làm ''Uyển nghi'' (婉仪) năm 1140. Sau khi mất, bà được truy phong làm ''Hiền phi'' (賢妃). Mẹ nuôi của [[Tống Hiếu Tông]].
* [[Lưu Hiền phi]] (劉賢妃; ? - 1187), người [[Lâm An]], cha là [[Lưu Mậu]] (劉懋). Nhập cung là ''Hồng hà bí'' (红霞帔), tiến phong ''Tài nhân'' (才人) rồi ''Uyển dung'' (婉容). Năm 1154, phong làm ''Hiền phi'' (賢妃), tính khí kiêu ngạo. Cao Tông qua đời, bà đau buồn đến sinh bệnh rồi mất cùng năm đó.
* [[Lưu Uyển nghi]] (劉婉儀), khi mới nhập cung phong làm ''Nghi Xuân Quận
* Tài nhân [[Ngô Ngọc Nô]] (吴玉奴), người của dòng họ [[Ngô Thược Phân|Ngô Hoàng hậu]]. Ban đầu năm 1140 phong ''Tử hà bí'' (紫霞帔), sau lên ''Hồng hà bí'' (红霞帔) năm 1143, 7 năm sau thăng ''Tân Hưng Quận
* [[Phùng Mỹ nhân]] (馮美人).
* [[Hàn Tài nhân]] (韓才人).
* [[Lý Tài nhân]] (李才人).
* [[Vương Tài nhân]] (王才人).
* Quận quân [[Điền Xuân La]] (郡君田春羅; 1108 - 1128), thiếp thất khi Cao Tông còn là Khang vương. Bị bắt và chết ở phương bắc.
* Quận quân [[Khương Túy Mỵ]] (郡君姜醉媚; 1110 - ?), thiếp thất khi Cao Tông còn là Khang vương. Bị bắt và chết ở phương bắc.
===Con cái===
==== Con trai ====
* ''Nguyên Ý thái tử'' [[Triệu Phu]] (元懿太子趙旉), do Phan Hiền phi sinh ra, mất sớm.
==== Con nuôi ====
* [[Tống Hiếu Tông|Triệu Bá Tông]] (趙伯琮), tức [[Tống Hiếu Tông]] sau này, mẹ nuôi là Trương Hiền phi.
* [[Triệu Bá Cửu]] (趙伯玖), đổi thành [[Triệu Cừ]] (趙璩). Mẹ nuôi là Ngô Hoàng hậu.
====Con gái====
# Khang Đại tôn cơ [[Triệu Phật Hữu]] (赵佛祐; 1124 - 1127), chết trên đường giải về phương bắc.
# Khang Nhị tôn cơ [[Triệu Thần Hữu]] (赵神祐; 1124 - ?), con gái của Cao Tông duy nhất còn sống sót.
# Khang Tam tôn cơ Triệu thị, chết trên đường giải về phương bắc khi được 3 tuổi.
# Khang Tam tôn cơ Triệu thị, chết trên đường giải về phương bắc khi được 2 tuổi.
# Khang Tam tôn cơ Triệu thị, chết trên đường giải về phương bắc khi được 2 tuổi.
Hai công chúa lớn mới lên 4 tuổi cũng bị bắt, sau bị buộc phải vào nơi giặt giũ quần áo làm việc. Theo ''Tân An huyện chí'' thì người [[Triệu Thần Hữu]] tới năm Kiến Viêm thứ 3 (1129) mới 6 tuổi được huyện lệnh [[Giang Tây]] là [[Đặng Nguyên Lượng]] nhặt được đem về nuôi dưỡng, đến khi lớn gả cho con trai của ông này là [[Đặng Tử Minh]]. Đến khi [[Tống Quang Tông]] lên ngôi, Nhị Khang công chúa cùng con trai lớn vào chầu, được Quang Tông gọi là Hoàng cô, phong làm Quận chúa và truy phong cho Đặng Tự Minh làm ''Thuế Viện Quận mã'' và ban cho đến đất [[Đông Hoản|Đông Hoàn]]. Con cháu sau này di dời tới [[Hồng Kông]], [[Bát Hương]], [[Bình Sơn]], [[Hạ Môn]], [[Đại Bộ]], [[Phấn Lĩnh]] và [[Long Dược Đầu]]<ref>[http://www.beta.discoverhongkong.com/tc/attractions/nt-kathingwai.html Cát Khánh vi]</ref><ref>[http://www.pingshan.com/ts-qc-Whole.html Đặng tộc thiên sầm đích chân thật niên đại]</ref>.
|