Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trạng nguyên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Chỉnh sửa
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n Đã lùi lại sửa đổi của 115.72.181.244 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Ngomanh123
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 1:
{{bài cùng tên}}
'''Trạng nguyên''' ([[chữ Hán]]: 狀元), còn gọi là '''đỉnh nguyên''' (鼎元) hay '''điện nguyên''' (殿元) là danh hiệu được các Triều đại [[phong kiến]] tại [[Trung Quốc]], [[Việt Nam]], [[Cao Ly]] ban tặng cho những người đỗ đạt cao nhất trong các kỳ thi ở cấp cao nhất để tuyển chọn quan lại. Mặc dù chế độ khoa cử theo [[Nho giáo|Nho học]] tại Trung Quốc đã có từ sớm hơn ([[năm 587]] thời [[nhà Tùy]]), nhưng chỉ từ niên hiệu Vũ Đức năm thứ năm thời [[Đường Cao Tổ]] [[nhà Đường]] (năm 622) mới đặt ra các bậc là trạng nguyên, [[bảng nhãn]], [[thám hoa]] dùng để ban tặng cho ba người đỗ đạt ở ba vị trí cao nhất.
 
Đối với người đứng đầu kỳ thi võ, đôi khi người ta cũng dùng từ trạng nguyên để chỉ.
'''Trạng nguyên''' ([[chữ Hán]]: 狀元) là danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ dành cho người đỗ cao nhất trong các khoa thi đình thời phong kiến ở [[Việt Nam]] vào các triều [[nhà Lý]], [[Nhà Trần|Trần]], [[Nhà Hậu Lê|Lê]], và [[Nhà Mạc|Mạc]]. Người đỗ Trạng nguyên và các chức danh tiến sĩ khác điều phải vượt qua 3 kỳ thi: thi hương, thi hội và thi đình.
 
==Việt Nam==
Khoa thi đầu tiên được mở ra vào năm 1075, dưới thời nhà Lý. Người đỗ đầu khoa thi này là [[Lê Văn Thịnh]], nhưng vẫn chưa được gọi bằng cái tên Trạng nguyên. [[Thủ khoa nho học Việt Nam|Thủ khoa Đại Việt]]. Đến năm 1247, khoa Thiên Ứng Chính Bình thứ 16, vua [[Trần Thái Tông]] mới đặt ra định chế Tam khôi, với danh hiệu dành cho 3 vị trí cao nhất: Trạng nguyên, [[Bảng nhãn]], và [[Thám hoa]]. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa, mà thay thế bằng [[Đình nguyên thời Nguyễn|Đình nguyên]]. Do đó, Trạng nguyên cuối cùng là [[Trịnh Tuệ]], đỗ khoa Bính Thìn (1736), thời Lê-Trịnh.
{{chính|Trạng nguyên Việt Nam}}
 
Tại [[Việt Nam]], năm [[1247]], vua [[Trần Thái Tông]] mới đặt ra tam giáp hay tam khôi là ba danh hiệu nói trên, mặc dù khoa cử đã có từ thời [[nhà Lý]].
<nowiki>:</nowiki> Trạng nguyên, [[Bảng nhãn]], [[Thám hoa]] thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa (danh hiệu cao nhất dưới thời nhà Nguyễn là [[Đình nguyên thời Nguyễn|Đình nguyên]]). Do đó Trạng nguyên cuối cùng là [[Trịnh Tuệ]] đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh
==Trung Quốc==
{{chính|Trạng nguyên Trung Quốc}}
 
Trạng nguyên đầu tiên của Trung Quốc là [[Tôn Phục Già]] năm [[622]], trạng nguyên cuối cùng là [[Lưu Xuân Lâm]] năm [[1904]]. Trong khoảng 1.300 năm tại Trung Quốc lấy 504 trạng nguyên?<!--Theo bảng là 638 người--> (nếu tính cả các trạng nguyên do [[nhà Liêu]] lấy là 18 người, [[nhà Kim]] 15 người, [[Đại Tây quốc]] 1 người ([[Trương Hiến Trung]]), [[Thái Bình Thiên Quốc|Thái Bình thiên quốc]] 14 người thì tổng cộng có 552 trạng nguyên. Thời nhà Đường, không tổ chức điện thi (tức thi đình) mà chỉ tổ chức tỉnh thi (thi tỉnh). Bài thi trạng nguyên cổ nhất hiện còn giữ được là bài thi của [[Triệu Bỉnh Trung]] (1573-1626) thời [[nhà Minh]]. Cả cha và con đều đỗ trạng nguyên là chuyện rất hiếm. Cụ thể, tại Trung Quốc chỉ có:
Khoa thi đầu tiên được mở ra dưới thời Lý năm 1075, lúc đó vua nhà Lý chưa đặt ra định chế tam khôi nên người đỗ đầu khoa thi này là [[Lê Văn Thịnh]] chưa được gọi là Trạng nguyên. Danh sách cụ thể những người đỗ đầu các kỳ thi này xem bài [[Thủ khoa nho học Việt Nam|Thủ khoa Đại Việt]]. Phải đến khoa thi năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 đời vua [[Trần Thái Tông]] ([[1247]]) mới đặt ra định chế tam khôi (3 vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, [[Bảng nhãn]], [[Thám hoa]]) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa (danh hiệu cao nhất dưới thời nhà Nguyễn là [[Đình nguyên thời Nguyễn|Đình nguyên]]). Do đó Trạng nguyên cuối cùng là [[Trịnh Tuệ]] đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh.
* [[Quy Nhân Trạch]] và [[Quy Ảm]], lần lượt đỗ trạng nguyên năm 874 và 892. Người anh của Quy Nhân Trạch là [[Quy Nhân Thiệu]] cũng đỗ trạng nguyên năm 869.
 
* [[Lương Hạo]] và [[Lương Cố]], lần lượt đỗ trạng nguyên năm 985 và 1008.
'''Trạng nguyên''' ([[chữ Hán]]: 狀元) là danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ của người đỗ cao nhất trong các khoa đình thời phong kiến ở [[Việt Nam]] của các triều [[nhà Lý]], [[Nhà Trần|Trần]], [[Nhà Hậu Lê|Lê]], và [[Nhà Mạc|Mạc]], kể từ khi có danh hiệu Tam khôi dành cho 3 vị trí đầu tiên. Người đỗ Trạng nguyên nói riêng và đỗ tiến sĩ nói chung phải vượt qua 3 kỳ thi: thi hương, thi hội và thi đình.
* [[Trương Khứ Hoa]] và [[Trương Sư Đức]], lần lượt đỗ trạng nguyên năm 961 và 1011.
 
Khoa thi đầu tiên được mở ra dưới thời Lý năm 1075, lúc đó vua nhà Lý chưa đặt ra định chế tam khôi nên người đỗ đầu khoa thi này là [[Lê Văn Thịnh]] chưa được gọi là Trạng nguyên. Danh sách cụ thể những người đỗ đầu các kỳ thi này xem bài [[Thủ khoa nho học Việt Nam|Thủ khoa Đại Việt]]. Phải đến khoa thi năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 đời vua [[Trần Thái Tông]] ([[1247]]) mới đặt ra định chế tam khôi (3 vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, [[Bảng nhãn]], [[Thám hoa]]) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa (danh hiệu cao nhất dưới thời nhà Nguyễn là [[Đình nguyên thời Nguyễn|Đình nguyên]]). Do đó Trạng nguyên cuối cùng là [[Trịnh Tuệ]] đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh.
{| class="wikitable" width=590
 
|-
oa thi đầu tiên được mở ra dưới thời Lý năm 1075, lúc đó vua nhà Lý chưa đặt ra định chế tam khôi nên người đỗ đầu khoa thi này là [[Lê Văn Thịnh]] chưa được gọi là Trạng nguyên. Danh sách cụ thể những người đỗ đầu các kỳ thi này xem bài [[Thủ khoa nho học Việt Nam|Thủ khoa Đại Việt]]. Phải đến khoa thi năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 đời vua [[Trần Thái Tông]] ([[1247]]) mới đặt ra định chế tam khôi (3 vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, [[Bảng nhãn]], [[Thám hoa]]) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa (danh hiệu cao nhất dưới thời nhà Nguyễn là [[Đình nguyên thời Nguyễn|Đình nguyên]]). Do đó Trạng nguyên cuối cùng là [[Trịnh Tuệ]] đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh.
!width="90"|Triều đại || width="90"|Số khoa thi ||width="80"|Số trạng nguyên || width="330"|Ghi chú
 
|-
Thiên Ứng Chíìh6 ời vua [[Trần Thái Tông]] ([[1247]]) mới đặt ra định chế Tam khôi với danh hiệu dành cho 3 vị trí cao nhất: Trạng nguyên, [[Bảng nhãn]], và [[Thám hoa]]. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa (danh hiệu cao nhất dưới thời nhà Nguyễn là [[Đình nguyên thời Nguyễn|Đình nguyên]]). Do đó Trạng nguyên cuối cùng là [[Trịnh Tuệ]] đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh.
| [[Nhà Tùy]] || align ="center"| || align ="center"| 7 (tiến sĩ) || Nhà Tùy ngắn ngủi, mới thi hành chế độ khoa cử.
 
|-
'''Trạng nguyên''' ([[chữ Hán]]: 狀元) là danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ của người đỗ cao nhất trong các khoa đình thời phong kiến ở [[Việt Nam]] của các triều [[nhà Lý]], [[Nhà Trần|Trần]], [[Nhà Hậu Lê|Lê]], và [[Nhà Mạc|Mạc]], kể từ khi có danh hiệu Tam khôi dành cho 3 vị trí đầu tiên. Người đỗ Trạng nguyên nói riêng và đỗ tiến sĩ nói chung phải vượt qua 3 kỳ thi: thi hương, thi hội và thi đình.
| [[Nhà Đường]] || align ="center"|263 || align ="center"|148 || Có sách nói nhà Đường tổ chức 270 kỳ thi
 
|-
Khoa thi đầu tiên được mở ra dưới thời Lý năm 1075, lúc đó vua nhà Lý chưa đặt ra định chế tam khôi nên người đỗ đầu khoa thi này là [[Lê Văn Thịnh]] chưa được gọi là Trạng nguyên. Danh sách cụ thể những người đỗ đầu các kỳ thi này xem bài [[Thủ khoa nho học Việt Nam|Thủ khoa Đại Việt]]. Phải đến khoa thi năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 đời vua [[Trần Thái Tông]] ([[1247]]) mới đặt ra định chế tam khôi (3 vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, [[Bảng nhãn]], [[Thám hoa]]) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Đến thời nhà Nguyễn thì không lấy danh hiệu Trạng nguyên nữa (danh hiệu cao nhất dưới thời nhà Nguyễn là [[Đình nguyên thời Nguyễn|Đình nguyên]]). Do đó Trạng nguyên cuối cùng là [[Trịnh Tuệ]] đỗ khoa Bính Thìn (1736) thời Lê-Trịnh.
| [[Ngũ Đại Thập Quốc|Ngũ đại Thập quốc]] || align ="center" | 47 || align ="center"| 24 ||
 
|-
*[[Quy Nhân Trạch]] và [[Quy Ảm]], lần lượt đỗ trạng nguyên năm 874 và 892. Người anh của Quy Nhân Trạch là [[Quy Nhân Thiệu]] cũng đỗ trạng nguyên năm 869.
| [[Nhà Tống]] ||align ="center"|118||align ="center"|118||
*[[Lương Hạo]] và [[Lương Cố]], lần lượt đỗ trạng nguyên năm 985 và 1008.
|-
* 1011.
|[[Nhà Liêu]]||align ="center"|57||align ="center"|56||
|-
|[[Tây Hạ]]||align ="center"|không rõ ||align ="center"|1||
|-
|[[Nhà Kim]]||align ="center"|41||align ="center"|39||
|-
|[[Nhà Nguyên]]||align ="center"|16||align ="center"|32||Nhà Nguyên chia thí sinh người Hán và người Mông Cổ thành hai bảng tả, hữu. Mỗi khoa lấy 2 trạng nguyên
|-
|[[Nhà Minh]]||align ="center"|90||align ="center"|90||
|-
|[[Đại Tây quốc]]||align ="center"|1||align ="center"|5||
|-
|[[Nhà Thanh]]||align ="center"|112||align ="center"|114||
|-
|[[Thái Bình Thiên Quốc|Thái Bình thiên quốc]]||align ="center"|không rõ ||align ="center"|15||
|-
|align ="center"|Tổng cộng ||align ="center"|745||align ="center"|638||
|}
 
==Cao Ly==
{{chính|Trạng nguyên Cao Ly}}
== Tham khảo ==
{{tham khảo}}
 
{{sơ khai Trung Quốc}}
 
[[Thể loại:Khoa cử Nho học]]