Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lạng Giang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 31:
*21 xã: [[An Hà]], [[Đại Lâm, Lạng Giang|Đại Lâm]], [[Đào Mỹ]], [[Dương Đức]], [[Hương Lạc]], [[Hương Sơn, Lạng Giang|Hương Sơn]], [[Mỹ Hà, Lạng Giang|Mỹ Hà]], [[Mỹ Thái, Lạng Giang|Mỹ Thái]], [[Nghĩa Hòa, Lạng Giang|Nghĩa Hòa]], [[Nghĩa Hưng, Lạng Giang|Nghĩa Hưng]], [[Phi Mô]], [[Quang Thịnh]], [[Tân Dĩnh]], [[Tân Hưng, Lạng Giang|Tân Hưng]], [[Tân Thanh, Lạng Giang|Tân Thanh]], [[Tân Thịnh, Lạng Giang|Tân Thịnh]], [[Thái Đào]], [[Tiên Lục]], [[Xuân Hương, Lạng Giang|Xuân Hương]], [[Xương Lâm]], [[Yên Mỹ, Lạng Giang|Yên Mỹ]].
 
===Lịch sử===
Từ những ngày đầu triều các vua Hùng, Lạng Giang chưa thành tên gọi. Địa phận của huyện thuộc đất [[Kê Từ]] (bao gồm địa giới hành chính các huyện Lạng Giang, [[Lục Nam]], [[Lục Ngạn]] ngày nay) nằm trong lộ [[Vũ Ninh]]. Tên Kê Từ tồn tại suốt gần một nghìn năm Bắc thuộc; đến [[thế kỷ 11]], được đổi là châu Lạng thuộc lộ [[Bắc Giang]]. Năm [[1407]], châu Lạng đổi thành phủ Lạng Giang, gồm 02 châu: Châu Lạng Giang và châu [[Thượng Hồng]], cai quản 10 huyện, trong đó có huyện[[ Bảo Lộc]] chính là đất Lạng Giang ngày nay và một phần của huyện Lục Nam; trụ sở đặt tại làng [[Vôi (thị trấn)|Chu Nguyên]] (thị trấn Vôi ngày nay). Năm [[1889]], [[Đông Dương thuộc Pháp|chính quyền Pháp]] thành lập tỉnh Lục Nam, huyện Bảo Lộc thuộc tỉnh Lục Nam. Ngày 8-9-1891, tỉnh Lục Nam giải thể, huyện Bảo Lộc trả về tỉnh [[Bắc Ninh]].