Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mật tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→Mật tông tại Việt Nam: Lỗi chính tả Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
|||
Dòng 39:
Tại Việt Nam, có nhiều tác giả dịch thuật những bài kinh thuộc tạng kinh mật giáo như [[Thích Thiền Tâm]], [[Thích Viên Đức]], Thiền sư [[Nhẫn Tế]], Kim Cương Thựơng Sư [[Thích Viên Thành]] dòng [[Drukpa]] - Bhutan viện chủ [[Chùa Hương]] - Hà Nội v.v., Ngoài ra còn có những vị tu theo mật pháp như [[Tịnh Danh Pháp Chủ]], Nhật Quang, [[Phương Nghi Huyền Thạch công]], [[Kim Cang Sư Thích Minh Đức|Kim Cương Sư Thích Minh Đức]], Thượng toạ [[Thích Minh Hiền]], Thượng toạ [[Thích Minh Trí]], Ni Sư [[Thích Viên Minh]], Ni Sư [[Thích Bảo Tâm]], Ni Sư [[Thích Thanh Tịnh]], Ni Sư [[Huệ Đức]] v.v.
Trong núi Cấm (An Giang) có dòng Mật Tông thuần Việt được truyền dạy từ rất lâu, hơn 4500 năm về trước qua rất nhiều đời. Hiện tại chúng ta chỉ biết được 2 vị Tổ gần nhất là: Tổ Tịnh Vân
Tông chỉ của Mật Tông Việt Nam ( Du Già Bồ Tát Đạo ) :
Dòng 49:
2. Huyễn pháp : pháp huyễn của bồ tát là không chấp nhặt vào hoàn cảnh khó của đời, luôn lạc quan trong giấc ngủ thấy mình & người điều là anh hùng, tài giỏi trong tâm tư muốn mình vượt trên sóng gió, là người ở cõi đạo tràng sáng suốt trang nghiêm.
3. Quá khứ đã qua : không luyến nhớ, không bận tâm, không
4. Hiện tại quang minh : sống hiện tại đầy đủ, thân tâm rõ ràng,nâng cao sức học luyện tài, luyện trí, đời sống gia đình tốt đẹp là người công dân hàng đầu của xã hội.
5. Tương lai vững bền : Không ảo tưởng tương lai quá xa vượt khỏi tầm tay, không thực tế, nhìn tương lại gần, chắc bền, thuận lợi.
|