Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại Tân sinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 11:
 
===Kỷ Palaeogen===
Kỷ Cổ Cận trải dài từ sự tuyệt chủng của các loài khủng long không giống chim, 66 triệu năm trước, đến bình minh của kỷ Tân Cận, 23,03 triệu năm trước. Nó gồm ba thế chính: thế Cổ Tân, thế Thủy Tân và thế Tiệm Tân. [[File:Basilosaurus.jpg|thumb|''[[Basilosaurus]]'']]
 
[[Thế Cổ Tân]] kéo dài từ 66 triệu đến 56 triệu năm trước. Các động vật có vú nhau thai hiện đại có nguồn gốc trong khoảng thời gian này. Cổ Tân là điểm chuyển tiếp giữa sự tàn phá tuyệt diệt của sự kiện tuyệt chủng K-T, đến môi trường rừng giàu có của thế Thủy Tân sớm. Cổ Tân sớm thấy sự phục hồi của Trái Đất. Các lục địa bắt đầu có hình dạng hiện đại, nhưng tất cả các lục địa và tiểu lục địa Ấn Độ đều tách rời nhau. [[Lục địa Á-Âu-Phi]] bị tách ra bởi [[Đại dương Tethys]], và châu Mỹ vẫvẫn bị tách ra bởi eo biển Panama, vì eo đất ở đây chưa được hình thành. Thế này đặc trưng có một xu hướng ấm lên chung toàn cầu, với rừng rậm cuối cùng cũng lan tới cả các địa cực. Các đại dương bị chi phối bởi cá mập,[11]<ref>{{Citation|last=Royal Tyrrell Museum|title=Lamniform sharks: 110 million years of ocean supremacy|date=2012-03-28|url=https://www.youtube.com/watch?v=e4p9EWuVxYQ|accessdate=2017-07-12}}</ref> sau khi các loài bò sát lớn từng chiếm ưu thế đã tuyệt chủng. Động vật có vú cổ xưa lấp đầy thế giới như các loài [[creodonta]] (động vật ăn thịt đã tuyệt chủng, không liên quan đến [[Bộ Ăn thịt]] hiện đại).
 
[[Thế Thủy Tân]] dao động từ 56 triệu năm đến 33,9 triệu năm trước. Trong Thủy Tân sớm, các loài sống trong rừng rậm không thể phát triển thành các dạng lớn hơn, như trong thế Cổ Tân. Không có loài nào vượt quá trọng lượng 10 kg.[12]<ref>{{cite web|url=http://www.ucmp.berkeley.edu/tertiary/eocene.php|title=Eocene Epoch|author=University of California|work=University of California}}</ref> Trong số đó có các loài linh trưởng đầu tiên, cá voi và ngựa cùng với nhiều dạng động vật có vú khác. Ở đỉnh của chuỗi thức ăn là những con chim khổng lồ, chẳng hạn như ''[[Paracrax]]''. Nhiệt độ toàn cầu là 30 độ C với gradient nhiệt độ ít thay đổi từ cực đến cực. Trong Thủy Tân giữa, dòng biển Quanh cực-Nam Cực giữa Úc và Nam Cực được hình thành. Các hải lưu bị gián đoạn bởi dòng chảy này trên phạm vi toàn cầu và kết quả là gây ra một hiệu ứng làm mát toàn cầu, thu hẹp các khu rừng. Điều này cho phép động vật có vú phát triển với tỷ lệ voi mút, chẳng hạn như cá voi, vào thời điểm đó, đã thích ứng gần như hoàn toàn dưới nước. Những động vật có vú như ''[[Andrewsarchus]]'' ở trên đỉnh của chuỗi thức ăn. Thủy Tân muộn chứng kiến ​​sự tái sinh của các mùa, làm cho việc mở rộng các khu vực giống như sa mạc, cùng với sự phát triển của cỏ.[13][14]<ref>{{cite web|url=http://www.ucmp.berkeley.edu/tertiary/eocene.php|title=Eocene Climate|author=University of California|work=University of California}}</ref><ref>{{cite web|url=http://science.nationalgeographic.com/science/prehistoric-world/paleogene/|title=Eocene|author=National Geographic Society|work=National Geographic}}</ref> Sự kết thúc của thế Thủy Tân được đánh dấu bởi [[Sự kiện tuyệt chủng Eocen–Oligocen
]], hay được gọi là Sự đại phá vỡ.
 
Thế Tiệm Tân trải dài từ 33,9 triệu đến 23,03 triệu năm trước. Tiệm Tân đặc trưng cho sự mở rộng của các loài [[cỏ]] đã dẫn đến nhiều loài mới phát triển, bao gồm những con voi đầu tiên, mèo, chó, động vật có túi và nhiều loài khác vẫn còn phổ biến cho đến hiện nay. Nhiều loài thực vật khác cũng phát triển trong giai đoạn này. Thời kỳ làm mát có mưa theo mùa vẫn tiếp tục. Động vật có vú vẫn tiếp tục phát triển lớn hơn.[15]<ref>{{cite web|url=http://www.ucmp.berkeley.edu/tertiary/oligocene.php|title=Oligocene|author=University of California|work=University of California}}</ref>
 
===Kỷ Neogene===