Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đèn sợi đốt”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 14.167.140.93 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Ngọc Xuân bot Thẻ: Lùi tất cả |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
{{thiếu nguồn gốc}}
[[Tập tin:Gluehlampe 01 KMJ.png|nhỏ|phải|200px|Một
'''Đèn sợi đốt''', còn gọi là '''đèn dây tóc
Về người sáng chế ra bóng đèn sợi đốt, các nhà lịch sử Robert Friedel và Paul Israel đã liệt kê 22 nhà phát minh loại đèn này trước [[Joseph Swan]] và [[Thomas Edison]] (1847 – 1931). Họ kết luận rằng phiên bản đèn sợi đốt (được sản xuất hàng loạt từ năm 1880) của Edison hơn các phiên bản khác do kết hợp ba yếu tố: vật liệu đốt hiệu quả hơn, độ chân không trong bóng đèn cao hơn các phiên bản khác (bằng cách sử dụng bơm Sprengel) và điện trở cao hơn khiến việc phân phối điện từ một nguồn trung tâm có thể thực hiện được một cách kinh tế (còn có tên gọi là đèn nung sáng)
Dòng 13:
Năm 1809, [[Humphry Davy|Humphrey Davy]] lần đầu tiên biểu diễn đèn hồ quang carbon tại Viện Hoàng Gia ở London. Năm 1877, những ngọn đèn hồ quang được treo bên ngoài Nhà hát kịch Balê [[Paris|Pari]]. Chúng giống như những ngọn nến, bên trong có hai thanh carbon đồng trục phát sáng khi được tách nhau. Đèn hồ quang xuất hiện đúng vào thời điểm lịch sử khi mà điện đã rời bỏ phòng thí nghiệm đi vào cuộc sống thường ngày. Đó là thời gian của các [[xe ngựa]] treo đèn hơi đốt, khi mà nội chiến ở Mỹ vừa qua đi được hơn mười năm. Đối với nhiều người, đèn hồ quang là một thiết bị điện đầu tiên mà họ nhìn thấy.
Tháng 1 năm 1879, tại phòng thi nghiệm của mình tại [[Menlo Park, New Jersey|Menlo Park]], [[New Jersey]], [[Thomas
Đèn phóng điện công suất cao (HID) đã được sử dụng thay cho đèn sợi đốt từ những ngày đầu của thế kỷ 20.Chiếc đèn HID là [[đèn hơi thủy ngân]] của [[Peter Cooper Hewitt]] chế tạo năm 1901. Đó là một bóng dài khoảng 1.2 mét cho ánh sáng màu xanh – xanh lá cây.
Những chiếc đèn hơi thủy ngân dày dặn chắc chắn giống như những chiếc đèn sử dụng ngày nay đã được đưa vào sử dụng năm 1934 với công suất 400 W.
Những nghiên cứu về [[Đèn hơi natri|đèn hơi Natri]] áp suất thấp bắt đầu từ những năm 1920. Những ứng dụng thương mại đầu tiên được dùng cho chiếu sáng các đại lộ nối vùng Beek và Geleen ở phía bắc của [[Hà Lan]] ngày 1 tháng 7 năm 1932. Cũng trong năm này, đường Purley Way ở [[Luân Đôn|London]] cũng được chiếu sáng bằng loại đèn này. Đèn hơi Natri áp suất thấp dễ nhận biết bởi màu vàng [[hổ phách]] của mình.
'''[[Đèn huỳnh quang]]''' được trình diễn trước công chúng tại hội chợ quốc tế tại [[Thành phố New York|New York]] vào năm 1937. Loại đèn này được thương mại hóa khoảng năm 1938. Đèn huỳnh quang thuộc loại nguồn sáng phóng điện áp suất thấp, ánh sáng được phát ra bởi bột huỳnh quang sau khi chúng được kích thích bằng các tia cực tím phát ra bởi phóng điện của hơi [[thủy ngân]].
Dòng 43:
1. Loại chứa khí trơ: Bầu đèn lớn, bao gồm:
# Đèn Sợi đốt thông dụng:
Là đèn có sợi đốt
# Đèn sợi đốt có lớp phản xạ:
Là loại bóng sợi đốt
2. Loại chứa khí Halogen: Bầu đèn nhỏ, công suất lớn
Suốt quá trình hoạt động của bóng đèn thường, sự bay hơi của dây tóc
Vấn đề trên đã được khắc phục với sự ra đời của bóng đèn Halogen. Bóng Halogen có công suất và tuổi thọ cao hơn bóng đèn thường. Đây là loại đèn thế hệ mới có nhiều ưu điểm so với đèn thế hệ cũ như: Đèn halogen chứa khí halogen như iode hoặc brôm. Các chất khí này tạo ra một quá trình hoá học khép kín: Iode kết hợp với vonfram
Thêm vào đó, một ưu điểm của bóng halogen là chỉ cần một tim đèn nhỏ hơn so với bóng thường. Điều này cho phép điều chỉnh tiêu diểm chính xác hơn so với bóng bình thường. (Chú ý trên thị trường hiện nay bóng đèn giả halogen rất nhiều)
|