Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nam – Bắc triều (Việt Nam)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
n Đã lùi lại sửa đổi của 14.232.2.79 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Tuanminh01
Thẻ: Lùi tất cả
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Map of Southern and Northern Dynasties of Vietnam.png|nhỏ|200px|Nam-Bắc triều]]
{{Otheruses4|thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Việt Nam|Nam Bắc triều trong lịch sử các quốc gia khác|Nam-Bắc triều (định hướng)}}
Thời '''Nam-Bắc triều''' ([[chữ Hán]]: 南北朝;[[1533]]-[[1592]]) là khoảng thời gian [[nhà Mạc]] cầm quyền tại [[Thăng Long]], gọi là '''Bắc triều''' và nhà [[Nhà Lê sơ|Hậu Lê]] bắt đầu trung hưng, chiếm được vùng đất từ [[Thanh Hóa]] trở vào Nam, gọi là '''Nam triều'''. Thời Nam-Bắc triều kéo dài từ năm [[1533]] khi [[Nguyễn Kim]] mượn danh nghĩa phò vua [[Lê Trang Tông|Lê Duy Ninh]] <nowiki/>chiếm được [[Thành Tâynhà GiaiHồ|Tây Giai]] ([[Thanh Hóa]]), cho tới năm [[1592]] khi [[nhà Mạc]] mất [[Thăng Long]].
 
 
 
Tàn quân nhà Mạc chạy lên mạn Bắc và được [[nhà Minh]] can thiệp cho ở đất [[Cao Bằng]].
 
==Hình thành==
Sang đầu [[thế kỷ 16]], [[nhà Hậu Lê]] bắt đầu suy yếu. Một võ tướng nhà Lê là [[Mạc Thái Tổ|Mạc Đăng Dung]] đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy bên ngoài, nắm lấy quyền hành triều Lê. Sau đó, ông đánh dẹp các lực lượng chống đối và đến năm [[1527]] thì phế truất [[Lê Cung Hoàng]], lập ra [[nhà Mạc]].
{{Lịch sử Việt Nam}}
Các lực lượng thân nhà Lê chưa bị loại bỏ hết. Sau khi Trịnh Ngung và Trịnh Ngang cầu viện [[nhà Minh]] không thành và hoàng thân Lê Ý khởi binh thất bại năm 1531, một võ tướng cũ của nhà Lê khác là [[Nguyễn Kim]] tiếp tục tập hợp lực lượng chống Mạc.
 
Năm [[1529]], [[Nguyễn Kim]], bỏ chạy vào miền núi [[Thanh Hóa|Thanh Hoá]] và sang [[Lào|Ai Lao]] (Lào). Năm [[1533]], [[Nguyễn Kim]] tìm lập một người dòng dõi nhà Lê là [[Lê Trang Tông|Lê Duy Ninh]] đưa lên ngôi trên đất [[Huaphanh|Sầm Châu]] (Ai Lao), tức là vua [[Lê Trang Tông]].
 
Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc.
Hàng 19 ⟶ 21:
{{Chính|Chiến tranh Lê-Mạc}}
 
Năm [[1545]], Nguyễn Kim bị hàng tướng [[Dương Chấp Nhất]] đầu độc giết chết. Con rể Nguyễn Kim là [[Trịnh Kiểm]] lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội.
 
Năm [[1546]], [[Mạc Hiến Tông]] chết, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là [[Mạc Tuyên Tông]], chú là Khiêm Vương [[Mạc Kính Điển]] làm phụ chính. [[Nhà Mạc|Bắc triều]] xảy ra biến loạn do bất đồng trong việc chọn người thừa kế nghiệp. Tướng [[Phạm Tử Nghi]] muốn lập con [[Mạc Đăng Dung|Mạc Thái Tổ]] là Hoằng Vương [[Mạc Chính Trung]] đã trưởng thành nhưng không được nên cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Mạc Kính Điển phải vất vả đối phó tới năm 1551 mới dẹp được.
Hàng 27 ⟶ 29:
Nhân sự tổn thất lực lượng của Bắc triều, Nam triều chiếm lại được Thanh Hóa và [[Nghệ An]]. Năm 1572, sau khi tướng Nam triều là Nguyễn Hoàng chiếm được Thuận Hóa, nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát [[Bắc Bộ Việt Nam|Bắc Bộ]].
 
Sau đó Nam triều cũng xảy ra biến loạn. [[Trịnh Kiểm]] mất ([[1570]]), hai con [[Trịnh Cối]] và [[Trịnh Tùng]] tranh ngôi. Trịnh Cối yếu thế sang hàng nhà Mạc.
 
Trong suốt những năm [[1545]]-[[1580]] là giai đoạn hai bên giằng co, chiến sự nổ ra chủ yếu tại [[Sơn Nam (địa danh cũ Việt Nam)|Sơn Nam]], [[Ninh Bình]], [[Thanh Hóa]] - [[Nghệ An]]. Hai bên khi được khi thua. Ngoài vai trò của người phụ chính như [[Mạc Kính Điển]] và cha con [[Trịnh Kiểm]], [[Trịnh Tùng]], cuộc chiến đã nổi lên tên tuổi các danh tướng [[Nguyễn Quyện]] phía Bắc triều và [[Hoàng Đình Ái]], [[Nguyễn Hữu Liêu]] phía Nam triều.
 
[[Tháng mười|Tháng 10]] năm [[1580]], Mạc Kính Điển mất, em là [[Mạc Đôn Nhượng]] lên thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín. [[Mạc Mậu Hợp]] từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng thân phụ chính, không chú trọng việc chính sự. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận.
 
Đầu năm [[1592]], Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công ra bắc. Quân Mạc đại bại, chết rất nhiều. Cuối năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Cha con [[Mạc Mậu Hợp]] và [[Mạc Toàn]] thua chạy rồi lần lượt bị bắt và bị hành hình.
Hàng 41 ⟶ 43:
 
===Ảnh hưởng từ cuộc chiến===
Chiến tranh tàn khốc kéo dài 60 năm, [[kinh tế]] bị ảnh hưởng tiêu cực. Tình hình nông nghiệp khá ảm đạm. Ruộng đất công xã ngày càng thu hẹp lại, các triều đình bị chiến tranh chi phối không quản lý tốt được đất đai, do đó một phần không nhỏ đất chuyển sang sở hữu tư nhân. Sự biến đổi trong quan hệ ruộng đất ở nông thôn phần nào tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển tự do hơn. Điều đó tạo ra tác động tích cực đối với nền kinh tế hàng hóa theo chiều hướng mở rộng<ref>Viện Sử học, tập 3, sách đã dẫn, tr 556</ref>.
 
Cũng vì chiến tranh, nhà Mạc áp dụng chế độ lộc điền khác với thời [[Nhà Lê sơ|Hậu Lê]]. Các vua Mạc ít dành lộc điền cho quan lại mà đối tượng được hưởng chủ yếu là binh lính để khuyến khích họ chiến đấu cho triều đình. Lộc điền chủ yếu lấy từ nguồn ruộng công ở các làng xã và ruộng chùa, diện tích khoảng vài chục vạn mẫu<ref>Viện Sử học, tập 3, sách đã dẫn, tr 461</ref>.
Hàng 50 ⟶ 52:
So với nhà Hậu Lê, nhà Mạc có tư duy kinh tế cởi mở hơn, trên nhiều lĩnh vực kinh tế. Trong [[nông nghiệp]], chế độ tư hữu [[ruộng đất]] thời Mạc có điều kiện phát triển tự do. Việc mua bán đất đai tư nhân rất phổ biến và triều đình không đề ra biện pháp hạn chế hay cấm đoán nào<ref>Viện Sử học, tập 3, sách đã dẫn, tr 462</ref>.
 
Cách đối xử với thợ thủ công của nhà Mạc khác nhiều với nhà Lê: nhà Mạc có sự tôn trọng họ và do đó họ có vị trí nhất định trong [[xã hội]]. Dù [[Chiến tranh Lê-Mạc|chiến tranh Nam bắc– Bắc triều]] kéo dài, các chợ chạm khắc đá vẫn di chuyển đến nhiều địa bàn hành nghề trên các vùng đất do nhà Mạc quản lý<ref>Viện Sử học, tập 3, sách đã dẫn, tr 474</ref>.
 
Tương tự với [[thương mại]], nhà Mạc chủ trương không "ức thương" hay "bế quan tỏa cảng" như nhà Hậu Lê. Ngoại thương Bắc triều có những bước chuyển biến tích cực, các sản phẩm thủ công nghiệp đã vươn sang thị trường các quốc gia [[châu Á]]<ref>Viện sử học, tập 3, sách đã dẫn, tr 483</ref>.
Hàng 60 ⟶ 62:
* Những tác giả trung thành với nhà Lê, theo Lê chống Mạc hoặc chán thế sự và sống ẩn dật.
 
Có một bộ phận sĩ phu biểu hiện sự trăn trở giữa con đường theo phe nào trong cuộc nội chiến Lê Mạc, hoặc ẩn dật an nhàn. Những tác giả lớn thời kỳ này có [[Nguyễn Bỉnh Khiêm]], [[Giáp Hải]], [[Nguyễn Dữ]], [[Dương Văn An]]. Tác phẩm "''Bạch Vân thi tập''" của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là tác phẩm chữ Hán quán xuyến từ đầu đến cuối tư tưởng an nhàn của nhà Nho trước vấn đề thời cuộc<ref>Viện Sử học, tập 4, sách đã dẫn, tr 580</ref>.
 
Trong giáo dục khoa cử, nhà Mạc cũng như nhà Hậu Lê, vẫn dùng [[Nho giáo]] làm tư tưởng chính thống trong việc thể chế hoá các chính sách cai trị và xây dựng bộ máy triều đình. Mặc dù chiến tranh xảy ra liên miên, Bắc triều vẫn duy trì việc thi cử đều đặn 3 năm một lần. Từ năm [[1529]] thời [[Mạc Đăng Dung|Mạc Thái Tổ]] đến năm 1592 thời [[Mạc Mậu Hợp]], nhà Mạc đã tổ chức 22 khoa thi, lấy đỗ 485 tiến sĩ, trong đó có 13 [[trạng nguyên]]<ref>Viện Sử học, tập 3, sách đã dẫn, tr 501</ref>. Thậm chí kỳ thi cuối cùng của nhà Mạc năm 1592 diễn ra bên bờ bắc [[sông Hồng]] trong hoàn cảnh Thăng Long bị quân Nam triều uy hiếp dữ dội.
 
Trong khi đó, nhà Lê từ khi trung hưng mãi tới năm 1554 mới mở lại khoa [[thi Hội]]. Từ thời [[Lê Thế Tông]], việc thi cử mới bắt đầu đi vào quy củ và tới năm 1580 các kỳ thi Hội mới được khôi phục theo lệ 3 năm 1 lần. Từ năm 1554 tới năm 1592 nhà Lê chỉ có 7 kỳ thi, lấy đỗ 5 tiến sĩ<ref>Viện Sử học, tập 3, sách đã dẫn, tr 505</ref>.
Hàng 68 ⟶ 70:
==Tôn giáo, tín ngưỡng==
:''Xem thêm:'' [[Tôn giáo tín ngưỡng thời Mạc]]
Không chỉ cởi mở về mặt kinh tế, nhà Mạc có sự cởi mở cả về mặt tư tưởng. Khác với sự độc tôn [[Nho giáo]] của nhà Hậu Lê, nhà Mạc tuy dùng Nho giáo làm tư tưởng cai trị nhưng không hạn chế [[Phật giáo]] và [[Đạo giáo]]. Nhiều chùa được Bắc triều xây cất và tu bổ.
 
Không chỉ cởi mở về mặt kinh tế, nhà Mạc có sự cởi mở cả về mặt [[Ý thức hệ|tư tưởng]]. Khác với sự độc tôn [[Nho giáo]] của nhà Hậu Lê, nhà Mạc tuy dùng Nho giáo làm tư tưởng cai trị nhưng không hạn chế [[Phật giáo]] và [[Đạo giáo]]. Nhiều chùa được Bắc triều xây cất và tu bổ.

[[Thiên Chúa giáo|Đạo Thiên chúa]] đã tìm cách xâm nhập bước đầu vào Đại Việt thời Nam Bắc triều nhưng chưa thu được thành tựu. Các giáo sĩ phương Tây bắt đầu lén tiếp cận [[Đại Việt]] thực hiện truyền đạo vào các năm 1533 tại Giao Thủy ([[Nam Định]]) ở Bắc triều, năm 1580 tại [[Quảng Nam]] thuộc Nam triều. Tới năm 1583 dù được [[Mạc Mậu Hợp]] cho phép truyền giáo nhưng công việc của các giáo sĩ không đạt kết quả do bất đồng [[ngôn ngữ]]<ref>Viện Sử học, tập 4, sách đã dẫn, tr 552-554</ref>.
 
==Xem thêm==