Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chế định Chủ tịch nước Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 140:
Sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam năm 1975, lực lượng Việt Cộng đã thống nhất được đất nước, quy non sông về một mối. Miền Nam được hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của Chính phủ cách mạng lâm thời miền nam Việt Nam. Lãnh đạo Việt cộng hân hoan trong thắng lợi, và nhanh chóng vạch kế hoạch đưa Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Về mặt pháp luật, đây là giai đoạn đỉnh cao của nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được áp dụng khi xây dựng bản hiến pháp 1980, khái niệm “Chuyên chính vô sản “ lần đầu tiên xuất hiện trong hiến pháp. Đây là lần đâu tiên chế định chủ tịch nước hay chế định nguyên thủ quốc gia từ cá nhân được thể hiện bằng chế độ tập thể (Hội đồng nhà nước).<ref name="mattran"/>
 
Tổ chức và hoạt động Nhà nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và quan điểm về “quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” mà Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ IV đã xác định. Cuộc tổng tuyển cử ngày 25 tháng 4 năm 1976 cử tri cả nước đã bầu ra Quốc hội thống nhất, Quốc hội khoá VI. Tiếp đó, ngày 18 tháng 12 năm 1980 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã chính thức thông qua Hiến pháp mới đó là Hiến pháp 1980. Chủ tịch nước, theo quy định của Hiến pháp năm 1980, nằm trong hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước ở trung ương với tên gọi là [[Hội đồng Nhà nước]]. Hiến pháp năm 1980 đã “sát nhập” hai chức năng của Ủy ban thường vụ quốc hội với chức năng của Chủ tịch nước là cá nhân trong Hiến pháp 1959 vào một cơ quan duy nhất là Hội đồng Nhà nước.
===Quy trình thành lập và nhiệm kỳ ===
Hội đồng nhà nước được bầu ra trong số các đại biểu quốc hội. Bao gồm chủ tịch Hội đồng nhà nước và các phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước. Nhiệm kì của hội đông nhà nước theo nhiệm kì của quốc hội, khi quốc hội hết nhiệm kì ,hội đồng nhà nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi quốc hội khóa mới bầu ra hội đồng nhà nước mới.