Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Theodor Boveri”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:07.0565734 using AWB
n Chỉnh sửa nguồn chú thích và diễn đạt.
Dòng 9:
|known_for = [[Học thuyết di truyền nhiễm sắc thể]]<br/>Phôi học
}}
Theodor Heinrich Boveri (phiên âm quốc tế: /ˈθiədər ˈhaɪnrɪk boʊˈvɛri/, tiếng Việt: Thê-ô-đo Hen-ric Bô-vê-ri) là nhà tế bào học người [[Đức]], cùng với [[Walter Sutton]] đã xây dựng '''[[học thuyết di truyền nhiễm sắc thể]]'''. Học thuyết này thuộc lĩnh vực [[Di truyền học]], nên người ta cũng gọi ông là nhà di truyền học.<ref>https://www.britannica.com/biography/Theodor-Heinrich-Boveri</ref>
==Tiểu sử và gia đình==
Theodor Heinrich Boveri sinh ngày 12 tháng 10 năm 1862, trong một gia đình trung lưu ở [[Bamberg]], Bavaria thuộc [[Đức]]. Tên ông thường được gọi tắt – theo người Đức – là '''Theodor''' trùng với cha của ông là một bác sĩ có họ tên đầy đủ là Johann Eugen Theodor; còn mẹ ông là Antonie Boveri.
Dòng 17:
*Thời niên thiếu, Theodor có xu hướng thích văn học nghệ thuật, nên tốt nghiệp trung học xong đã ghi tên học về [[Khoa học xã hội|khoa học xã hộ]]<nowiki/>i (Humanities). Tuy nhiên đến năm 1881 (lúc 19 tuổi), thì Theodor lại chuyển sang học [[Sinh học]] và Giải phẫu học ở [[Đại học Munich]]. Ở đây, năm 1885 ông nhận bằng tiến sĩ về [[Sinh học tế bào|Tế bào học]] (cytology) sau khi bảo vệ thành công luận án "Nghiên cứu về dây thần kinh" (Beiträge zur Kenntnis der Nervenfasern). Do đó, ông được tài trợ để có thể tiếp tục nghiên cứu tại khoa Động vật học ở Munich.
*Năm 1893, Theodor được bổ nhiệm làm [[Giáo sư]] [[Động vật học]] và [[Giải phẫu học so sánh]] tại Đại học Würzburg và làm việc ở đó đến cuối đời. Ông mất ngày 15 tháng 10 năm 1915, thọ 53 tuổi.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.britannica.com/biography/Theodor-Heinrich-Boveri|tiêu đề=Encyclopaedia Britannica|website=}}</ref>
* Theodor đã kết hôn với nhà sinh vật học người Mỹ là Marcella O'Grady (1863–1950), cùng sống ở Đức. Con gái của họ: Margret Antonie Boveri (1900 - 1975) là một trong những nhà báo kiêm nhà văn nổi tiếng nhất của Đức giai đoạn sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai]].<ref>https://www.biografiasyvidas.com/biografia/b/boveri.htm</ref>
==Sự nghiệp và cống hiến==
* Khi nghiên cứu quá trình phát triển cá thể của ''Ascaris megalocephala'' là loài [[Ngành Giun tròn|giun tròn]] kí sinh trong ruột ngựa, kể từ sự phát sinh giao tử, rồi [[thụ tinh]] đến sự hình thành và phát triển [[hợp tử]], Theodor đã nhận thấy rằng các tế bào trứng có số lượng [[nhiễm sắc thể]] bị giảm đi một nửa so với tế bào bình thường (tức là tế bào xôma ta gọi bây giờ) của nó. Bởi thế ông được xem là một trong những người đầu tiên cung cấp bằng chứng về quá trình [[giảm phân]] (meiosis); mặc dù cơ chế giảm phân được xem là mô tả chính thức bởi W. Flemming và E. van Benden vào năm 1887.<ref>Phạm Thành Hổ: "Di truyền học"-NXB Giáo dục, 1998.</ref>
Dòng 24:
# Số lượng nhiễm sắc thể ở mỗi giao tử (tinh trùng và trứng) chỉ bằng một nửa của tế bào bình thường ([[tế bào xôma]]) giống như ở giun tròn ông đã nghiên cứu.
# Hợp tử nào có một tập hợp đủ cả hai (bây giờ ta gọi là 2n tức bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội), thì có sự phát triển bình thường. Ấu trùng nhím biển nào có nhiều hơn (tức là 3n như ta gọi hiện nay) hoặc ít hơn (tức đơn bội) thì phát triển bất thường.
*Kết luận thứ ba của Theodor đã chứng minh giả thuyết của nhà tế bào học người Bỉ thời đó là Edouard van Beneden - rằng trứng và tinh trùng đóng góp số lượng nhiễm sắc thể bằng nhau cho hợp tử là tế bào mới, được tạo ra từ thụ tinh.
*Bởi thế, khi các quy luật của Mendel được khám phá lại vào năm 1900, Boveri đã nhận ra mối tương quan khăng khít giữa các "nhân tố Mendel" (nay ta gọi là [[gen]]) với nhiễm sắc thể và sự biểu hiện ra bên ngoài (mà nay ta gọi là [[kiểu hình]]). Từ đó ông cho rằng các "nhân tố Mendel" phải ở trong nhiễm sắc thể - đặt nền móng cho lý thuyết mà sau này gọi là học thuyết di truyền qua nhiễm sắc thể, cũng gọi là di truyền qua nhân (xem thêm ở trang [[Di truyền ngoài nhiễm sắc thể]]). Đó là năm 1902.
*Sau đó ít lâu, khi nghiên cứu sự phân bào của tế bào động vật, ông đã đề xuất thuật ngữ centrosome ([[trung thể]]) để chỉ một cấu trúc đã được phát hiện và khẳng định nó vai trò không thể thiếu trong quá trình phân chia tế bào. Ông cũng chứng minh rằng mỗi nhiễm sắc thể "chịu trách nhiệm" (quy định) cho các đặc điểm di truyền đặc trưng (tính trạng). Ông còn nêu ra tầm quan trọng của tế bào chất đối với nhiễm sắc thể - điều mà ngày nay ta gọi là "tương tác giữa hệ gen ở nhân với hệ gen tế bào chất".