Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Công chúa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 26:
{{see also|Danh sách các Công chúa Trung Quốc}}
===Tiên Tần===
Trước [[Nhà Chu|thời Chu]], hệ thống giai tầng xã hội chưa hoàn bị, các xưng hiệu chưa rõ ràng. Đến đời Chu thiên tử, các vị Thiên tử xưng [[Vương]], vốn họ Cơ, vì vậy con gái Chu vương thường được gọi là '''Vương Cơ''' (王姬), nhưng không phải là một phong hiệu chính thức. Tuy vậy, do ảnh hưởng điều này, phụ nữ [[Trung Quốc]] [[Nhà Chu|thời Chu]] (thậm chí đến đầu đời [[Nhà Hán|Hán]]) thường được chép tên hiệu với từ Cơ ghép phía sau như [[Ly Cơ]], [[Triệu Cơ]], [[Ngu Cơ]]... Đến thời [[Chiến Quốc]], các chư hầu đều xưng [[Vương]], con gái các [[vua]] [[chư hầu]] đầu xưng là Công chúa, cũng có khi là '''QuânQuận chúa''' (君主). Riêng con gái Chu vương vẫn xưng là ''Vương Cơ''.
 
Khi [[Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần|Tần diệt Chu]], danh hiệu Vương Cơ bị phế bỏ. Bấy giờ, do vương thất [[Tần (nước)|nước Tần]] đều mang họ Doanh, nên con gái trong vương thất thường được xưng tên ghép với chữ Doanh như ''Hoài Doanh'', ''Văn Doanh''... Sau khi [[Tần Thủy Hoàng]] thống nhất [[Trung Quốc]], phong hiệu cho các [[Hoàng nữ]] vẫn chưa được ghi chép rõ. Thời [[Bắc Tống]], [[Tư Mã Quang]] có chép rằng các con gái của [[Tần Thủy Hoàng]] có được gọi là Công chúa.<ref>''Tư trị thông giám'', quyển 7, phần Nhị Thế hoàng đế nguyên niên.</ref>
 
=== Hán Đường ===
[[Tập tin:Princess Wencheng.jpg|thumb|left|200px|Tượng [[Văn Thành công chúa]] [[nhà Đường]]]]
 
Sang đầu thời [[Tây Hán]], chế độ sách phong, tấn phong và đãi ngộ cho con gái và cháu gái [[Hoàng đế]] được hình thành. Theo đó, các [[Hoàng nữ]] xưng là Công chúa, con gái các [[Vương]] (gọi là [[Vương nữ]]) thì xưng là ''[[Ông chúa]]'' (翁主) hoặc ''Vương chúa'' (王主)<ref name="Đường lục điển, quyển 2">''[[Đường lục điển]]'', quyển 2.</ref>. Công chúa đầu tiên được sử liệu ghi chép là là [[Lỗ Nguyên công chúa]], con gái của [[Hoàng đế]] khai quốc [[nhà Hán]] [[Lưu Bang]]. Tuy nhiên, ''"Lỗ Nguyên"'' chỉ là thụy hiệu được đặt sau này, còn tên thật của bà không được ghi chép lại.
 
Khi các Công chúa được gả cho bậc ''Liệu hầu'', phong hiệu của Công chúa đó sẽ đổi theo phong hiệu của chồng. Như [[Công chúa Bình Dương (Hán Cảnh Đế)|Dương Tín công chúa]], con gái của [[Hán Cảnh Đế]], khi được gả cho Bình Dương hầu [[Tào Thì]], phong hiệu của bà được cải thành '''Bình Dương công chúa'''. Do tước hiệu Công chúa không có tính thế tập, nên vẫn xảy ra trường hợp 2 công chúa có cùng phong hiệu (ở những thời điểm khác nhau), như trường hợp phong hiệu [[Quán Đào công chúa]] từng được phong cho Lưu Phiêu (con gái [[Hán Văn đế]]) và Lưu Thi (con gái [[Hán Tuyên đế]]). Hoặc có trường hợp phong hiệu gây nhầm lẫn với liệt hầu khác như Dương Tín công chúa với Dương Tín hầu.
 
Đời [[Hán Văn đế]], Trưởng nữ Lưu Phiêu là người đầu tiên chính thức được phong hiệu [[Quán Đào công chúa]], theo thực ấp của Công chúa là huyện [[Quán Đào]], gọi là [[Trưởng công chúa]] (長公主), khi sang thời [[Hán Vũ Đế]] trở thành '''Đại Trưởng công chúa''' (大長公主). Căn cứ theo [[Hậu Hán thư]] - [[Hoàng hậu]] kỷ viết:''"Hán chế, [[Hoàng nữ]] tắc phong Huyện công chúa, nghi phục ngang Liệt hầu. Những người được coi trọng, gia hiệu Trưởng công chúa, nghi phục ngang Phiên vương"'' (《后汉书·皇后纪》载:汉制,皇女皆封县公主,仪服同列侯。其尊崇者,加号长公主,仪服同蕃王). Lúc này, con gái cả do Trung cung sinh ra của [[Hoàng đế]], theo lệ sẽ được phong ''"Trưởng công chúa"'', địa vị ngang với Thân vương. Ngoài ra, [[Hoàng đế]] cũng có thể gia phong ''Trưởng công chúa'' cho chị mình, như [[Hán Vũ Đế]] gia phong [[Bình Dương công chúa]], hay [[Hán Chiêu Đế]] phong chị mình làm [[Ngạc Ấp công chúa]] phong hiệu là ''Cái Trưởng công chúa'' (蓋長公主).
 
Khi [[Vương Mãng]] lên ngôi, đã phế bỏ tước hiệu Công chúa, cải thành tước hiệu '''Thất chúa''' (室主), cải phong hiệu của con gái mình từ [[Vương hoàng hậu (Hán Bình Đế)|Định An thái hậu]] của nhà Hán thành '''Hoàng Hoàng thất chúa''' (黃皇室主). Sử liệu của ghi chép lại tước hiệu của hai con gái Vương Mãng là [[Vương Diệp]] và [[Vương Tiệp]] được phong lần lượt là; '''Mục Tu nhiệm''' (睦脩任) và '''Mục Đãi nhiệm''' (睦逮任)<ref>''[[Hán thư]]'', quyển 99 hạ, truyện Vương Mãng.</ref>.
 
Đến đời [[Đông Hán]], tước hiệu Công chúa được phục hồi, nhưng lại bỏ tước hiệu ''Ông chúa''. Phân định các bậc Công chúa được phân thành '''Huyện công chúa''' (gọi tắt là ''[[Huyện chúa]]''; 縣主),dành cho [[Hoàng nữ]]<ref name="Đường lục điển, quyển 2"/>; còn tước vị '''Hương công chúa''' (gọi tắt là ''Hương chúa''; 鄉主) và '''Đình công chúa''' (gọi tắt là ''[[Đình chúa]]''; 亭主), đều phong cho các [[Vương nữ]]. Căn cứ theo ghi chú của [[Thái Ung]] rằng:''"Đế nữ phong Công chúa, vị ngang Liệt hầu. Tỷ muội phong Trưởng công chúa, vị ngang Chư hầu Vương"'' (帝女曰公主,仪比列侯。姊妹曰长公主,仪比诸侯王。), lúc này danh vị ''Trưởng công chúa'' đã định hình là sắc phong cho chị hoặc em gái [[Hoàng đế]]<ref>''[[Hậu Hán thư]]'', Hoàng hậu kỷ, Đệ thập hạ.</ref>.
 
[[Tập tin:樂昌公主2.jpg|thumb|right|220px|Ảnh họa ''"Thiên thu tuyệt diễm đồ"'' thời Minh, vẽ [[Nhạc Xương công chúa]] [[Nhà Trần (Trung Quốc)|nhà Trần]]]]
 
Thời [[Tam Quốc]], chiến tranh loạn lạc, sử liệu thất lạc, chỉ có thể phỏng đoán thể chế phong hiệu các công chúa vẫn phỏng theo [[nhà Hán]]. Sang đến đời [[Nhà Tấn|Tấn]], Đế nữ được phong hiệu theo quận tên quận, gọi là ''Quận công chúa''; gọi tắt là '''[[Quận chúa]]''' (郡主), phong hiệu các Vương nữ gọi là ''[[Huyện chúa]]'', nhưng không được dùng xưng hiệu ''Huyện công chúa''<ref name="Đường lục điển, quyển 2"/>.
 
Thời [[Nam-Bắc triều (Trung Quốc)|Nam-Bắc triều]], Công chúa là tước hiệu dành cho [[Hoàng nữ]], tuy nhiên trên thực tế vẫn được phong cho các nữ giới khác trong dòng tông thất. Phong hiệu của các Công chúa lấy theo tên quận hoặc huyện được phong.
 
Thời [[Nhà Đường|Đường]], tước hiệu Công chúa, ngoài các [[Hoàng nữ]], còn được phong cho các nữ nhân trong tông thất, thậm chí các con gái của các [[Phò mã]], các đại thần cũng được phong tước hiệu Công chúa, đó như là một danh hiệu phong tặng không còn bị gò bó chỉ dành cho tông thất nữ nhân<ref>''Đường hội yếu'', quyển Lục, Hòa phiên Công chúa.</ref>. Các bậc Công chúa cũng quy định rõ<ref>''[[Tân Đường thư]], quyển 46, Chí 36: Bách quan nhất: Lại bộ.</ref>, mà về sau là căn bản cho các triều đại tiếp theo:
* Cô ruột của [[Hoàng đế]] được phong là ''Thái trưởng công chúa'' (太長公主);
* Chị, em gái [[Hoàng đế]] là ''[[Trưởng công chúa]]'' (長公主);
* Con gái [[Hoàng đế]] là ''Công chúa'' (公主);
* Con gái [[Hoàng thái tử]] là ''[[Quận chúa]]'' (郡主);
* Con gái Thân vương là ''[[Huyện chúa]]'' (縣主);
Dòng 63:
[[Tập tin:Princess of Caoguo 2.jpg|thumb|left|180px|[[Tào Quốc trưởng công chúa]], chị của [[Minh Thái Tổ]]]]
 
Thời [[Nhà Tống|Tống]], ngoài áp dụng phong hiệu từ [[thời Đường]], còn bổ sung thêm bậc '''Lượng quốc thái trưởng công chúa''' (兩國大長公主), dành cho những nữ giới vai trò là [[bà]] của [[Hoàng đế]]. Trừ 2 bậc ''Lượng quốc thái trưởng công chúa'' và ''Thái trưởng công chúa''; còn thì 2 bậc công chúa còn lại là ''Trưởng công chúa'' và ''Công chúa'', phong hiệu đều là mỹ danh, sau khi kết hôn sẽ cải phong hiệu theo tên Tiểu quốc được phong.
 
Đến đời [[Tống Huy tông]], phỏng theo chế độ [[nhà Chu]], cải tước hiệu Công chúa thành '''Đế cơ''' (帝姬). Các bậc dưới cũng được cải lại như Quận chúa thành '''Tông cơ''' (宗姬), huyện chúa thành '''Tộc cơ''' (族姬). Khi [[Bắc Tống]] diệt vong, [[Nam Tống]] phục hưng, do thấy chữ ''Cơ'' (姬) cùng âm với chữ ''Cơ'' (飢) mang ý nghĩa không may mắn, [[Tống Cao Tông]] quyết định cải tước hiệu Công chúa, Quận chúa, huyện chúa như cũ.
 
Sử liệu không ghi rõ [[nhà Liêu]] quy định tước hiệu Công chúa như thế nào. Các con gái [[Hoàng đế]] Liêu có thể được ghi dưới cả danh hiệu Công chúa, Quận chúa và Huyện chúa. [[Nhà Kim]] quy định rõ hơn, [[Hoàng nữ]] được phong ''Công chúa'', [[Vương nữ]] được phong ''Huyện chúa''. Tuy phong hiệu đều lấy tên huyện phong, nhưng bậc Huyện chúa không được xem như là ''Huyện công chúa''<ref>''[[Kim sử]]'', quyển 55, Chí 36: Bách quan Nhất</ref><ref>''[[Kim sử]]'', quyển 63, Liệt truyện 1: [Hậu] - phi thượng.</ref>. Đến [[nhà Nguyên]] thì các [[Hoàng nữ]], [[Vương nữ]] đều xưng là Công chúa<ref>''[[Tân Nguyên sử]], quyển 105</ref>.
 
Sang thời đại [[nhà Minh]], điển chế quy định: Hoàng cô mẫu là ''Thái trưởng công chúa''; Hoàng tỷ muội là ''Trưởng công chúa''; [[Hoàng nữ]] là ''Công chúa''; Thân vương nữ là ''Quận chúa''; con gái chính thất của Quận vương cũng được phong ''Quận chúa''; con gái thứ thất được phong là ''Huyện chúa''. Phu quân của các bậc Công chúa xưng là ''Phò mã'' (駙馬); còn Phu quân của Quận chúa và Huyện chúa xưng là ''Nghi tân'' (儀賓)<ref>''[[Minh sử]]'', quyển 121, Liệt truyện 9: Công chúa</ref>.
 
Thời [[Hậu Kim]], khi [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]] khai quốc, triều nghi còn đơn giản, các con gái và cháu gái Đại hãn đều xưng là [[Cách cách]] (chữ Mãn: {{mongolUnicode|ᡤᡝᡤᡝ}}, Gégé, ''格格''). Khi [[Hoàng Thái Cực]] lên ngôi [[Hoàng đế]], cải quốc hiệu thành [[Đại Thanh]], đã phỏng theo [[người Hán]], quy định con gái của [[Hoàng đế]] phong hiệu là ''Công chúa''.
 
Sau khi [[quân Thanh]] chiếm được [[Trung Quốc]], năm [[Thuận Trị]] thứ 17 ([[1660]]), [[nhà Thanh]] ra chế định thứ bậc phong hiệu của các hoàng[[Hoàng nữ]] như sau:
[[Tập tin:荣寿固伦公主旗装照.jpg|thumb|right|220px|Ảnh chụp [[Cố Luân Vinh Thọ công chúa]], công chúa cuối cùng của nhà Thanh.]].
 
* '''Cố Luân công chúa''' (固倫公主): ban cho con gái do [[Hoàng hậu]] sinh ra. ''Cố Luân'' có nghĩa là ''"thiên hạ"'' trong tiếng [[Mãn Châu]].
* '''Hòa Thạc công chúa''' (和碩公主): ban cho con gái do các phi[[Phi tần]] sinh ra. ''Hòa Thạc'' có nghĩa là ''"bốn phương, bốn mặt"'' trong tiếng [[Mãn Châu]].
 
Đối với các tông nữ, phân thành các bậc:
Dòng 87:
* '''Hương quân''' (鄉君): thường được ban cho con gái do chính thất sinh ra của ''Phụng ân trấn quốc công'' và ''Phụng ân phụ quốc công''; hoặc con gái của Bối lặc do tì thiếp sinh ra;
 
Các tước hiệu từ Quận chúa đến Hương quân, sau khi được [[Hoàng đế]] ban phong hiệu, mới được xưng [[Cách cách]]. Con gái của Thân vương đều được gọi là ''Hòa Thạc cách cách'' (和碩格格); con gái của Thế tử hay Quận vương đều là ''Đa La cách cách'' (多羅格格); còn con gái của Bối tử được gọi là ''Cố Sơn cách cách'' (固山格格). Dưới các bậc này, cháu gái của [[Hoàng đế]] chỉ được xưng là ''Tông nữ'' (宗女)<ref>''[[Thanh sử cảo]]'', quyển 114.</ref>.
 
Trên thực tế, vẫn có những trường hợp được nâng bậc lên như [[Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa]] vốn là con của [[Đôn phi]] Uông thị, đáng lẽ nên chỉ là bậc ''"Hòa Thạc công chúa"'', nhưng [[Càn Long Đế]] vẫn phá lệ nâng lên bậc ''"Cố Luân công chúa"''. Hoặc như [[Cố Luân Vinh Thọ công chúa|Vinh Thọ công chúa]], trưởng nữ của Cung thân vương [[Dịch Hân]], vốn chỉ ở bậc Hòa Thạc cách cách, năm 7 tuổi được [[Từ Hi thái hậu]] đưa vào cung nuôi dưỡng, phá cách phong lên bậc Cố Luân công chúa năm 1861. Bà cũng chính là vị Công chúa cuối cùng được ghi nhận của [[nhà Thanh]].
 
== Các quốc gia đồng văn ==