Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sơn Đông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up |
n stub sorting, replaced: nhà Đường → Nhà Đường, nhà Thanh → Nhà Thanh, Thế chiến → Thế Chiến (3) using AWB |
||
Dòng 76:
Năm 420, nhà [[Lưu Tống]] thay thế nhà Đông Tấn, Sơn Đông thuộc cương vực của triều đại này. Tuy nhiên, sau [[Chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy]], Sơn Đông đã thuộc về [[Bắc Ngụy]]- triều đại đã thống nhất miền Bắc Trung Quốc. Sau khi Bắc Ngụy diệt vong, Sơn Đông lần lượt thuộc về [[Đông Ngụy]] và [[Bắc Tề]].
Vào thời gian cực thịnh của [[nhà Tùy|triều Tùy]], số hộ tại khu vực nay là Sơn Đông chiếm 21% tổng số hộ toàn quốc. Chiến loạn những năm cuối triều Tùy đã phá hoại nặng nề Sơn Đông. Sau [[Trinh Quán chi trị]] thời [[Đường Thái Tông]] và [[Vĩnh Huy chi trị]] thời [[Đường Cao Tông]], Sơn Đông mới có thể khôi phục và phát triển. Thời [[
[[Tập tin:Pagoda at Lingyan Si.jpg|nhỏ|phải|Tích Chi tháp (辟支塔) tại [[Linh Nham tự]] (靈巖寺) ở Tế Nam, được xây từ năm 1056 đến năm 1063]]
[[Nhà Tống|Triều Tống]] tái thống nhất Trung Quốc vào cuối thế kỷ X. Năm 1996, người ta đã tìm thấy hơn 200 bức tượng Phật giáo tại Thanh Châu, nó được ca ngợi là một phát hiện [[khảo cổ học]] lớn. Các bức tượng được cho là đã bị chôn vùi khi [[Tống Huy Tông]] đàn áp Phật giáo do ông ủng hộ [[Đạo giáo]]. Thời Bắc Tống, kinh tế Sơn Đông phục hồi và phát triển nhanh chóng, năm Tuyên Hòa thứ 1 (1119-1120) thời Tống Huy Tông, [[Tống Giang]] đã tập hợp 36 người nổi dậy tại Lương Sơn (nay thuộc huyện [[Bình Hồ]]), sự việc này được tiểu thuyết hóa trong tác phẩm [[Thủy hử|Thủy Hử truyện]]. Năm Chí Đạo thứ 3 (997), triều đình Tống chia toàn quốc thành 15 lộ, khu vực Sơn Đông hiện nay thuộc Kinh Đông lộ. Năm Hi Ninh thứ 5 (1072), triều đình Tống chính thức phân Kinh Đông lộ thành hai lộ là Kinh Đông Đông lộ và Kinh Đông Tây lộ, đại bộ phận Sơn Đông thuộc Kinh Đông Đông lộ, còn phần tây nam thuộc Kinh Đông Tây lộ.
Dòng 84:
Sơn Đông hành tỉnh được thiết lập vào những năm Hồng Vũ thời [[Minh Thái Tổ]] Chu Nguyên Chương, đương thời Sơn Đông còn bao gồm cả [[Liêu Đông]]. Vào khoảng năm Hồng Vũ thứ 1 (1368), Sơn Đông "phần lớn là đất không người", triều đình Minh khuyến khích nhân dân khai khẩn. Đến năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), diện tích đất canh tác của Sơn Đông đã đạt trên 72,4 triệu [[mẫu (đơn vị đo)|mẫu]], đứng thứ ba toàn quốc. Năm Vĩnh Lạc thứ 19 (1421) thời [[Minh Thành Tổ|Minh Thái Tông]], sau khi triều Minh thiên đô đến [[Bắc Kinh]], những nơi nằm ven tuyến [[Đại Vận Hà]] là Tế Ninh và Lâm Thanh thuộc Sơn Đông đã phát triển phồn vinh nhờ [[tào vận]], tức vận chuyển bằng đường thủy. Sơn Đông hành tỉnh thời Minh được phân thành 6 phủ: Tế Nam, Duyện Châu, Đông Xương, Thanh Châu, Lai Châu, Đăng Châu.
Sang thời [[
Năm 1898, [[Thanh Đảo]] và Uy Hải phân biệt được triều Thanh cấp cho [[Đức|Đức Quốc]] và [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] thuê, Uy Hải luôn chỉ là một căn cứ hải quân, còn Thanh Đảo dưới sự thống trị của Đức và sau này là Nhật đã phát triển thành một thành thị công thương nghiệp trọng yếu của miền Bắc Trung Quốc. Người Đức đã tiến hành xây dựng [[đường sắt Giao-Tế]] nối từ Thanh Đảo đến Tế Nam trong giai đoạn 1899-1904, hoàn thành xây dựng đoạn phía bắc của [[đường sắt Kinh-Hỗ|đường sắt Tân-Phố]] vào năm 1911, đưa Sơn Đông vào phạm vi thế lực của họ. Các nơi ven tuyến đường sắt Giao-Tế là Tế Nam, Duy huyện (Duy Phường), [[Chu Thôn]] đều trở thành nơi thông thương buôn bán với nước ngoài, thành thị phát triển lớn lao. Cuối thời Thanh, Nga và Nhật trở thành mối uy hiếp lớn đối với Trung Quốc, triều đình cuối cùng cũng phải mở cửa [[Đông Bắc Trung Quốc|Đông Bắc]] cho di dân người Hán, cộng với sự khuyến khích của [[Trương Tác Lâm]] vào những năm đầu Dân Quốc, trong vòng 100 năm đã có hàng chục triệu nông dân Sơn Đông theo đường biển và đường bộ để đến Đông Bắc mưu sinh, gọi là [[Sấm Quan Đông]], nay tổ thành một bộ phận quan trọng trong nhân khẩu vùng Đông Bắc.
Dòng 90:
=== Thời cộng hòa ===
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 116-424-046, China, Tsingtau.jpg|nhỏ|phải|Quân Đức tại Thanh Đảo, 1912]]
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế
Trong [[Thời kỳ quân phiệt]] từ năm 1916 đến 1928 trong lịch sử Trung Hoa Dân Quốc, ban đầu Sơn Đông nằm trong tay các quân phiệt [[Trực hệ]], sau từ sau [[chiến tranh Trực-Phụng lần hai]] vào năm 1924 thì Sơn Đông rơi vào tay [[Phụng hệ]]. Tháng 4 năm 1925, Phụng hệ bổ nhiệm [[Trương Tông Xương]], có biệt danh là "cẩu nhục tướng quân" (tức "tướng quân thịt chó") làm đốc biện Sơn Đông, ông được tạp chí ''Time'' gán cho là "quân phiệt đê tiện nhất" Trung Quốc.<ref>"[http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,722931,00.html CHINA: Basest War Lord]"</ref> Trương Tông Xương cai quản Sơn Đông cho đến năm 1928, khi ông bị trục xuất trong [[Bắc phạt]]. Trong Bắc phạt, khi [[Quốc dân Cách mạng quân]] qua Tế Nam, đã xảy ra xung đột với quân Nhật, được gọi là [[sự kiện Tế Nam]] hay "thảm án Ngũ Tam".
Dòng 96:
Kế nhiệm Trương Tông Xương là [[Hàn Phúc Củ]], người này trung thành với quân phiệt [[Phùng Ngọc Tường]] song sau đó đã hướng lòng trung thành của mình sang chính phủ Nam Kinh do [[Tưởng Giới Thạch đứng đầu]]. Hàn Phúc Củ cũng trục xuất quân phiệt [[Lưu Trân Niên]] (劉珍年), có biệt danh là "Giao Đông vương"- người cai quản đông bộ Sơn Đông, do đó thống nhất cả tỉnh dưới quyền cai quản của mình.
[[Tập tin:Su Yu at MengLiangGu Battle 1947.jpg|nhỏ|phải|[[Túc Dụ]] (粟裕)- người thứ hai từ trái sang, chỉ huy [[chiến dịch Mạnh Lương Cố]] năm 1947]]
Năm 1937, Nhật Bản bắt đầu tiến hành xâm lược [[Trung Quốc bản thổ]] trong [[Chiến tranh Trung-Nhật]], và sau đó trở thành một phần của [[Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai|Mặt trận Thái Bình Dương]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế
Sau Thế
Sau khi [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] được thành lập, năm 1950, một số phần ở tây bộ Sơn Đông gồm Hà Trạch và Liêu Thành đã bị tách ra để hợp thành tỉnh mới [[Bình Nguyên (tỉnh)|Bình Nguyên]], song tỉnh này đã bị triệt tiêu vào năm 1952 và các khu vực này lại trở về Sơn Đông. [[Từ Châu]] và [[Liên Vân Cảng]] của Giang Tô cũng từng thuộc quyền quản lý của Sơn Đông trong giai đoạn 1949-1952. Trong [[Nạn đói lớn ở Trung Quốc|Nạn đói lớn]] 1959-1961, Sơn Đông là một trong các tỉnh chịu thiệt hai nghiêm trọng nhất toàn quốc, đặc biệt là vùng có Hoàng Hà chảy qua ở tây bắc bộ. Từ thập niên 1980, Sơn Đông, đặc biệt là vùng duyên hải đông bộ, đã có sự phát triển to lớn về kinh tế, trở thành một trong các tỉnh giàu có nhất của Trung Quốc.
|