Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sự kiện Tĩnh Khang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Baccaihp (thảo luận | đóng góp)
Baccaihp (thảo luận | đóng góp)
Dòng 51:
 
== Tĩnh Khang chi biến ==
Lấy cớ triều Tống bội ước, quân Kim nhanh chóng tấn công lần nữa. Quân Kim lại vây Thái Nguyên. Tháng 5 âm lịch năm 1126, [[Chủng Sư Trung]] giao chiến với người Kim ở huyện Du Thứ và tử trận, Khâm Tông cho Diêu Cổ và Lý Cương đến giải vây Thái Nguyên. Người Kim thừa thắng tấn công Bình Đà, Diêu Cổ lui về Long Đức. Lý Cương được tin, giáng chức Diêu Cổ, phong Giải Tiền làm chế trí sứ, đóng quân ở Hà Dương, chuẩn bị xe chiến, ngựa chiến rồi tiến ra Hà châu chống giặc. Tuy nhiên do các tướng dưới quyền chậm chạp lười biếng, nên các cánh quân đầu thất bại dưới tay người Kim. Nhà Tống được tin thua trận, bèn bãi chức Lý Cương, dùng Chủng Sư Đạo thay thế, đó là vào tháng 8 âm lịch. Phe chủ hòa lại nổi lên, xin cắt ba trấn cho người Kim.
 
Tháng 9 âm lịch, [[Niêm Một Hát]] đánh mạnh vào phủ Thái Nguyên. Tri phủ Trương Hiếu Thuần không chống nổi và bị bắt. Lý Cương bị đàn hặc vì "gây oán với Kim" liền bị đẩy làm tri Dương châu. Các đại thần Lưu Giác, Hồ An Quốc kêu xin cho Cương cũng bị giáng chức.
Lấy cớ triều Tống bội ước, quân Kim nhanh chóng áp đảo và đánh phá tới kinh sư Biện Lương. Lần này thì Triệu Cấu cùng quần thần phải chạy về Kim Lăng để chiêu mộ binh sĩ Cần Vương. Tuy nhiên chưa đầy một tháng thì quân Kim phá thành.
 
Bấy giờ các đạo quân do [[Trương Thức Dạ]], [[Tiền Cái]] đều định tới chi viện cho kinh sư. Nhưng Cảnh Nam Trọng và Đường Khắc chủ hòa, nên lại lệnh quân tướng các nơi không được khinh động, còn sai sứ tới trại Kim xin được hòa nghị. Tháng 10 âm lịch, quân Kim lại phá phủ Chân Định, [[Chủng Sư Đạo]] giao chiến ở Tỉnh Hình cũng bị thua. Người Kim sai Vương Nhuế đến Biện Kinh trách việc Tống triều thất tín. Lúc này người Kim đánh sang Trung Sơn, hạ Phần châu, Lân châu Bình Định quân chuẩn bị vượt sông. Khâm Tông kinh hãi, lại triệu Chủng Sư Đạo về kinh, nhưng ít lâu sau Sư Đạo qua đời. Lại dùng Phạm Nột lên thay coi giữ Lưỡng Hà, sai sứ giả đồng ý cắt đất. Niêm Một Hát đòi Tống phải cử Khang vương Triệu Cấu tới làm con tin.
Tống Khâm Tông tin rằng người Kim sẽ không bội ước mà đánh, tuy nhiên quân Kim lại đã đến dưới chân thành. Binh tướng Đại Tống khi thấy quân Kim, vẫn hãy còn chưa kịp tin vào mắt mình. Quân Kim đánh thành gấp gáp, quân Tống chưa đánh đã thua. Thành ngoài bị vỡ thì tới thành trong. Quân tràn vào, giết hết người trong thành, lại còn cướp bóc và phá nát Biện Kinh. Khi quân Kim vào tới Hoàng Thành thì Bắc Tống coi như đã chấm dứt.
 
Quân Kim biết nhà Tống bạc nhược nên vẫn cứ tấn công. Họ vào phủ Bình Dương, Hoài Đức quân. [[Niêm Một Hát]] áp sát Hoàng Hà, tuyên phủ sứ Triết Ngạn Cầu dẫn 10.000 binh ra chống. Một Hát dùng kế khua chiêng múa trống, quân Tống hoảng sợ chạy hết đi. Quân Kim bèn vượt sông. Các tướng Dương Án Anh, Tông Đạo, Vương Tương... bỏ thành mà chạy; Vĩnh An quân và Trịnh châu đều hàng Kim. Vương Vân đi sứ trở về, báo rằng người Kim không nói gì đến tam trấn mà bảo cắt Lưỡng Hà, chia sông để trị. Đình thần tranh cãi một trận, cuối cùng Khâm Tông theo lời Vương Vân, cử Khang vương Cấu đi sứ, hứa cắt đất, dâng tôn hiệu cho vua Kim có 18 chữ, gọi bác xưng cháu.
 
Quân Kim phá Hoài châu, giết tri châu Hoắc An Quốc, tiến đến chân thành Biện Kinh. Đường Khác không có kế nào, khuyên Khâm Tông hãy dời đô về Lạc Dương, nhưng có [[Trương Thúc Dạ]] đưa quân tới cứu viện và can ngăn. Người Kim lại đánh Thiện Lợi môn, Thống chế Diêu Hữu Trọng tử trận. Vào tháng nhuận, Đường Khác cùng Khâm Tông tuần thành, quân dân nhà Tống oán hận Đường Khác, liền đổ xô vào tấn công, Khác sợ quá xin từ chức. Lộ quân cần vương của Hồ Trực Nhụ kéo đến, bị người Kim đánh bại và bị giết, chỉ còn lộ quân của Trương Thúc Dạ. Khâm Tông phong ông làm Thiêm thư Xu mật viện sự. Thúc Dạ cùng Phạm Quỳnh cực lực ngăn chặn quân Kim, lại khuyên Khâm Tông dời đô về Tương Dương, ông không theo.
 
Quân Kim nhiều lần tấn công vào các cửa trong thành Biện Kinh, quân Tống chịu một số thiệt hại. Bên ngoài, người Kim cũng phá được nhiều châu quận ở Hà Bắc. Về sau người Kim đánh một trận lớn vào thành, Lục giáp binh ra chống và bị đánh tan tác. Bấy giờ có Quách Kinh tự xưng biết dùng pháp thuật có thể đánh lui quân Kim, nay Thúc Dạ buộc Kinh ra trận. Kinh liền mở cửa Tuyên Hóa, không giao chiến với quân Kim mà bỏ trốn. Quân Kim thừa thắng đánh mạnh vào thành, vào Nam Huân Môn, thống chế [[Diêu Hữu Trọng]] tử chiến, [[Lưu Diên Khánh]] cũng bị chết; ngoài ra còn có [[Hà Khánh Ngôn]], [[Trần Khắc Lễ]], [[Hoàng Kim Quốc]]... Thành Biện Kinh bị vỡ<ref name="TTTTG97" />. Đó là ngày 25 tháng 11 nhuận năm Tĩnh Khang thứ nhất, tức [[9 tháng 1]] năm [[1127]].
 
Quân dân và vệ sĩ trong thành hơn 100.000 người hùa nhau giết sứ thần triều Kim, đòi gặp thiên tử. Khâm Tông phải lên lầu úy dụ. Vệ sĩ [[Tưởng Tuyên]] muốn dùng vũ lực đuổi họ đo, nhưng [[Lã Hảo Vấn]] ngăn lại. Khâm Tông lệnh [[Hà Trạc]] và Tế vương Hủ tới trại Kim bàn việc nghị hòa. Niêm Một Hát đòi đích thân thượng hoàng phải ra gặp. Khâm Tông nước mắt lã chã, quyết định đi thay thượng hoàng. Đầu tháng 12, xa giá cùng [[Hà Trạc]], [[Trần Quá Đình]], [[Tôn Phó]] cùng đến trại Kim. Người Kim đòi nộp ngàn vạn lạng vàng, hai ngàn vạn lạng bạc, lụa một ngàn vạn tấm; và giữ tất cả các đại thần lại, chỉ thả Khâm Tông về. Khâm Tông trở về thành, khóc mà nói
:''Tể tướng hại cha con ta rồi''<ref name="TTTTG97" />.
 
Sau đó ông sai [[Trần Quá Đình]], [[Triết Ngạn Chất]] cắt đất Hà Đông, Hà Bắc cho Kim, lạ lệnh [[Âu Dương Tuân]] kêu gọi các châu quận đầu hàng. Tuân không phục, bị người Kim bắt giải về Yên Kinh.
 
Cha con Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông bị bắt về Thượng Kinh. Năm 1127, Kim Thái Tông phế truất nhị đế, giam lỏng trong tù. Cùng đi với nhị đế còn có hàng trăm văn quan. Các võ tướng một số đầu hàng, bị giết hay xuôi nam theo Triệu Cấu. Một lượng lớn binh sĩ Tống và dân thường vô tội đã bị quân Kim sát hại.