Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Biển Aral”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 72:
* xây dựng các đập nước để đưa nước về biển Aral
* dẫn nước từ sông Volga, Ob, Irtysh về. Giải pháp này khôi phục biển Aral chỉ trong 20-30 năm với chi phí 30-50 tỷ [[đô la Mỹ]]<ref name=ecoworld>{{chú thích web | author=Ed Ring | title=Release the Rivers: Let the Volga & Ob Refill the Aral Sea | url=http://www.ecoworld.com/Home/Articles2.cfm?TID=354 | publisher=Ecoworld | date=ngày 27 tháng 9 năm 2004 | accessdate=ngày 17 tháng 5 năm 2008}}</ref>.
* Bơm và khử mặn nước biển từ [[biển Caspi]] vào biển Aral thông qaqua hệ thống đường ống<ref name="The Internet Encyclopedia of Science">{{chú thích web | title=Aral Sea Refill: Seawater Importation Macroproject |url=http://www.daviddarling.info/encyclopedia/A/Aral_Sea_refill.html | publisher=The Internet Encyclopedia of Science| date=ngày 26 tháng 9 năm 2008}}</ref>
 
Tháng 01 năm 1994, các nước [[Kazakhstan]], [[Uzbekistan]], [[Turkmenistan]], [[Tajikistan]] và [[Kyrgyzstan]] đã ký một hiệp ước cam kết dành 1% ngân sách để khôi phục biển Aral. Đến 2006, các dự án khôi phục của [[Ngân hàng Thế giới]] dành cho Aral Bắc đã mang lại mực nước dâng hơn dự kiến, mang lại cả niềm tin mong manh mà trước đó chỉ là bức tranh tuyệt vọng.