Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triệu Phong”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
n Typo fixing, replaced: biển đông → Biển Đông (2), hế kỷ 15 → hế kỷ XV, hế kỷ 4 → hế kỷ IV, nhà Trần → Nhà Trần (3) using AWB
Dòng 32:
| web = [http://trieuphong.quangtri.gov.vn/render.userLayoutRootNode.uP Trang chủ Huyện Triệu Phong]
}}
'''Triệu Phong''' là một trong 10 huyện, thị, thành phố của tỉnh [[Quảng Trị]], [[Việt Nam]]. Huyện nằm về phía Đông Nam của tỉnh và trãi ngang như một tấm khăn chùng từ nơi giáp giới với hai huyện [[Cam Lộ]], [[Đakrông]] ra đến biểnBiển đôngĐông; chiều dài trên đất liền tư Tây sang Đông hơn 30&nbsp;km, chiều rộng ở vùng đồng bằng từ 10 đến 13&nbsp;km. Diện tích tự nhiên của huyện là 354,92 [[kilômét vuông|km²]], dân số của huyện tính đến tháng 4/2009 là 108.657 người.<ref name="trieuphong.quangtri.gov.vn">{{Chú thích web| url =http://trieuphong.quangtri.gov.vn/portlet-params@uP_portlet_action%253Dtrue%2526uP_root%253Dctf1%2526jspName%253Ddetail%25252Ejsp%2526MaCM%253D1%2526MaNT%253D3%2526MaTin%253D1865%2526Ngay%253Dngày 1 tháng 11 năm 2010@portlet-params.tag.a9a50e7e5eef754e.render.userLayoutRootNode.target.ctf1.uP | tiêu đề = Tổng quan bản đồ hành chính Huyện Triệu Phong | ngày truy cập = 21/8/2015| nhà xuất bản = trieuphong.quangtri.gov.vn }}</ref>
 
== Địa lý ==
Dòng 39:
*Phía Nam giáp với [[Quảng Trị (thị xã)|thị xã Quảng Trị]] và huyện [[Hải Lăng]]
*Phía Tây giáp với huyện [[Đakrông]]
*Phía Đông giáp với [[biểnBiển Đông]]
 
Thị trấn Ái Tử là trung tâm kinh tế - văn hoá xã hội của huyện cách thành phố Đông Hà 7&nbsp;km về phía Bắc và thị xã Quảng Trị 6&nbsp;km về phía Nam.
Dòng 62:
 
== Lịch sử ==
Mảnh đất Triệu Phong chính thức thuộc về bản đồ nước Đại Việt từ năm 1306, lúc hai châu Ô – Rý được vua Chăm pa là Chế Mân làm sính lễ cưới Công chúa Huyền Trân - con gái vua Trần Nhân Tông. Từ năm đó về trước, sử cổ chỉ cho biết mảnh đất này là một phần của Bộ Việt Thường – một trong 15 Bộ của nước Văn Lang đời các Vua Hùng. Sau năm 207 (trước Công nguyên) là một phần của Huyện Tỳ Cành, Quận Nhật Nam thời Bắc thuộc. Giữa thế kỷ 4IV lúc Vua Chăm pa là Phạm Văn đánh đuổi quân Hán ra khỏi Đèo Ngang, trở thành một phần đất của Châu Ô, thuộc Vương Quốc Chăm pa.
 
Sau khi tiếp quản, nhàNhà Trần cho di dân từ phía Bắc vào, mở đầu quá trình hình thành làng xã và thành lập đơn vị hành chính. Quá trình dời dân diễn ra 3 đợt chính:
+ Đợt thứ nhất từ năm 1307. Trong đợt di dân này,số dân và số làng chưa nhiều. Theo sách minh chí của Trung Quốc, đến giưa thập kỷ thứ 2 thế kỷ 15XV (tức hơn một thế kỷ sau) cả hai Châu Thuận và Hoá mới chỉ có 79 làng với 1470 nhà và 5662 khẩu.
+ Đợt thứ hai vào những năm đầu đời Lê Thánh Tông, là một đợt khá lớn. Theo sách “Thiên Nam dư hạ tập” viết năm 1483 thì riêng huyện Võ Xương đã có đến 53 làng. Năm 1553 sách “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An ghi số làng 59. Lúc này các làng ở vùng đồng bằng đã khá nhiều, vùng trung du ít hơn, và dọc bãi cát chỉ có người ở, chưa hình thành làng xã.
+ Đợt thứ ba bắt đầu từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá (1558) trở đi. Đây là đợt di dân lớn nhất. Hai thế kỷ sau, năm 1776, sách “Phủ Biên tạp lục” đã cho biết huyện Đăng Xương gồm có 5 tổng, 107 xã, 29 phường, 7 giáp (huyện Đăng Xương lúc đó còn bao gồm cả tổng An Phúc, huyện Hải Lăng và tổng An Lạc của huyện Cam Lộ, còn tổng Hoa La và tổng An Dã thuộc huyện Hải Lăng).
Từ đây, việc di dân, lập làng chỉ còn diễn ra trong phạm vi nội bộ tỉnh và huyện (Số làng sau cách mạng tháng 8/1945 chỉ nhiều hơn số làng của năm 1776 là 23, trong đó tăng nhiều nhất là ở vùng Trung du, miền núi (Tổng An Đôn).
 
Song song với quá trình di dân, lập làng đã diễn ra quá trình hình thành đơn vị hành chính. Năm 1307, nhàNhà Trần đổi tên Châu Ô thành Châu Thuận, đặt lỵ sở tại vùng Vệ Nghĩa (xã Triệu Long bây giờ). Về hành chính, nhàNhà Trần chia Châu Thuận thành 4 huyện. Đất Triệu Phong hiện giờ là huyện Hoa Lãng (nghĩa là đẹp và rộng thoáng). Năm 1469, vua Lê Thánh Tôn định lại bản đồ đất nước, đổi tên Hoa Lãng thành Võ Xương thuộc phủ Triệu Phong (Phủ Triệu Phong lúc này gồm 6 huyện từ Cửa Việt vào Điện Bàn (Quảng Nam – Đà Nẵng). Năm 1801 đặt dinh Quảng Trị, phủ Triệu Phong thuộc dinh, lãnh 3 huyện Đăng Xương, Hải Lăng, Minh Linh. Năm 1830 đặt chức tri phủ kiêm luôn huyện Minh Lương, 2 huyện Đăng Xương, Hải Lăng chỉ thống hạt. Năm 1836 phủ chuyển vào kiêm thay luôn Đăng Xương thống hạt 3 huyện (Minh Lương chia thành Minh Linh và Địa Linh). Đời Duy Tân, phủ chỉ là một huyện lớn không còn thống hạt). Năm 1604 Nguyễn Hoàng đổi thành huyện Đăng Xương, song phần đất của huyện Đăng Xương thời ấy khác với bây giờ. Tình trạng đó tồn tại mãi đến đời Minh Mạng, Tự Đức và Khải Định mới dần dần điều chỉnh lại thành mảnh đất như hiện nay (Quá trình điều chỉnh địa phận như sau: năm 1836: cắt tổng An Lạc về huyện Địa Linh (Gio Linh). Cắt tổng An Nhơn và 3 thôn Phương Long, Phú Hải, Thuận Đầu (thuộc tổng An Lưu) về huyện Hải Lăng. Cắt tổng An Dã và 2 làng Tam Hữu, Anh Hoa (Anh Kiệt thuộc tổng An Thái và phần lớn tổng Hoa La trừ các làng Thạch Hãn, Tý Lễ (Quy Thiện, Long Hưng, Tích Tường, Như Lệ nhập về huyện Đăng Xương). Năm 1842: Cắt 4 thôn Phường Thiết, Tràng Thượng, Hoà Đức, Nội Đức của tổng An Đôn nhập về huyện Thành Hoá (nay là Cam Lộ). Năm 1867, cắt các làng Đông Lai, Thượng Nghĩa, Đông Hà, Tây Trì thuộc tổng An Đôn về huyện Thành Hoá, đồng thời các làng Hà Xá, Trung Chỉ, Điếu Ngao, Lộc Yên từ Thành Hoá về huyện Đăng Xương. Năm 1920 chuyển các thôn Duy Phiên, Thanh Xuân, Xuân Thành từ huyện Gio Linh về phủ Triệu Phong). Năm 1844 do trùng với tên huý nhà Vua nên đổi Đăng Xương thành Thuận Xương. Khoảng 1918-1919 đời Khải Định, qua cải cách hành chính, phủ chỉ là huyện lớn không kiêm lý huyện và Thuận Xương trở thành phủ, lấy tên là phủ Triệu Phong, gồm 5 tổng (An Đôn, Bích La, An Dã, An Cư và An Lưu).
 
Sau cách mạng tháng 8 – 1945 chính quyền cách mạng bỏ đơn vị tổng lập thành xã gồm một số làng (tháng 10 -1946 toàn huyện có 14 xã), bỏ đơn vị phủ thành huyện. Năm 1950, thực hiện chủ trương của tỉnh từ 14 xã đã hợp nhất thành 10 xã lớn. Năm 1956, chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam đã chia Triệu Phong thành 18 xã thuộc 3 quận hành chính khác nhau là Triệu Phong, Đông Hà và Ba Lòng.