Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triệu Phong”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Typo fixing, replaced: biển đông → Biển Đông (2), hế kỷ 15 → hế kỷ XV, hế kỷ 4 → hế kỷ IV, nhà Trần → Nhà Trần (3) using AWB |
|||
Dòng 32:
| web = [http://trieuphong.quangtri.gov.vn/render.userLayoutRootNode.uP Trang chủ Huyện Triệu Phong]
}}
'''Triệu Phong''' là một trong 10 huyện, thị, thành phố của tỉnh [[Quảng Trị]], [[Việt Nam]]. Huyện nằm về phía Đông Nam của tỉnh và trãi ngang như một tấm khăn chùng từ nơi giáp giới với hai huyện [[Cam Lộ]], [[Đakrông]] ra đến
== Địa lý ==
Dòng 39:
*Phía Nam giáp với [[Quảng Trị (thị xã)|thị xã Quảng Trị]] và huyện [[Hải Lăng]]
*Phía Tây giáp với huyện [[Đakrông]]
*Phía Đông giáp với [[
Thị trấn Ái Tử là trung tâm kinh tế - văn hoá xã hội của huyện cách thành phố Đông Hà 7 km về phía Bắc và thị xã Quảng Trị 6 km về phía Nam.
Dòng 62:
== Lịch sử ==
Mảnh đất Triệu Phong chính thức thuộc về bản đồ nước Đại Việt từ năm 1306, lúc hai châu Ô – Rý được vua Chăm pa là Chế Mân làm sính lễ cưới Công chúa Huyền Trân - con gái vua Trần Nhân Tông. Từ năm đó về trước, sử cổ chỉ cho biết mảnh đất này là một phần của Bộ Việt Thường – một trong 15 Bộ của nước Văn Lang đời các Vua Hùng. Sau năm 207 (trước Công nguyên) là một phần của Huyện Tỳ Cành, Quận Nhật Nam thời Bắc thuộc. Giữa thế kỷ
Sau khi tiếp quản,
+ Đợt thứ nhất từ năm 1307. Trong đợt di dân này,số dân và số làng chưa nhiều. Theo sách minh chí của Trung Quốc, đến giưa thập kỷ thứ 2 thế kỷ
+ Đợt thứ hai vào những năm đầu đời Lê Thánh Tông, là một đợt khá lớn. Theo sách “Thiên Nam dư hạ tập” viết năm 1483 thì riêng huyện Võ Xương đã có đến 53 làng. Năm 1553 sách “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An ghi số làng 59. Lúc này các làng ở vùng đồng bằng đã khá nhiều, vùng trung du ít hơn, và dọc bãi cát chỉ có người ở, chưa hình thành làng xã.
+ Đợt thứ ba bắt đầu từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá (1558) trở đi. Đây là đợt di dân lớn nhất. Hai thế kỷ sau, năm 1776, sách “Phủ Biên tạp lục” đã cho biết huyện Đăng Xương gồm có 5 tổng, 107 xã, 29 phường, 7 giáp (huyện Đăng Xương lúc đó còn bao gồm cả tổng An Phúc, huyện Hải Lăng và tổng An Lạc của huyện Cam Lộ, còn tổng Hoa La và tổng An Dã thuộc huyện Hải Lăng).
Từ đây, việc di dân, lập làng chỉ còn diễn ra trong phạm vi nội bộ tỉnh và huyện (Số làng sau cách mạng tháng 8/1945 chỉ nhiều hơn số làng của năm 1776 là 23, trong đó tăng nhiều nhất là ở vùng Trung du, miền núi (Tổng An Đôn).
Song song với quá trình di dân, lập làng đã diễn ra quá trình hình thành đơn vị hành chính. Năm 1307,
Sau cách mạng tháng 8 – 1945 chính quyền cách mạng bỏ đơn vị tổng lập thành xã gồm một số làng (tháng 10 -1946 toàn huyện có 14 xã), bỏ đơn vị phủ thành huyện. Năm 1950, thực hiện chủ trương của tỉnh từ 14 xã đã hợp nhất thành 10 xã lớn. Năm 1956, chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam đã chia Triệu Phong thành 18 xã thuộc 3 quận hành chính khác nhau là Triệu Phong, Đông Hà và Ba Lòng.
|