Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quân lực Việt Nam Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
vectorized (GlobalReplace v0.6.5)
(tóm lược sửa đổi đã bị xóa)
Dòng 18:
'''Quân lực Việt Nam Cộng hòa''' là Lực lượng Quân đội của Chính phủ [[Việt Nam Cộng hòa]], thành lập từ năm 1955, với tiền thân là Lực lượng [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]] thuộc [[Liên hiệp Pháp]], chủ yếu là [[Địa phương quân (Việt Nam Cộng hòa)|Bảo an đoàn]], [[Bảo chính đoàn]]. Ngày truyền thống (còn gọi là ngày Quân lực) là ngày 19 tháng 6. Trong quá trình tồn tại của mình, Quân lực Việt nam Cộng hòa nhiều lần tham gia các biến cố chính trị, mà cao điểm là cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|Đảo chính năm 1963]] lật đổ Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], và sau đó các tướng lĩnh của quân đội nắm quyền chi phối chính phủ Việt Nam Cộng hòa cho đến ngày chính phủ này sụp đổ.
 
QLVNCH được trang bị hùng hậu với sức cơ động cao và hỏa lực mạnh, được sự hỗ trợ tích cực của [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và các đồng minh, để chống lại [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]], lực lượng vũ trang chính quy của [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] tại miền Nam Việt Nam, được sự hỗ trợ của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]]. Tuy vậy, khác với đối phương được tổ chức đơn giản, gọn nhẹ và hiệu quả cao, Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một quân đội trang bị hiện đại, mô phỏng hoàn toàn theo Hoa Kỳ nên rất tốn kém, đòi hỏi kinh phí hoạt động gần 3 tỷ đô la Mỹ mỗi năm{{fact|date=7-2014}} (gấp 10 lần đối phương). Nền Kinh tế Việt Nam Cộng hòa, vốn quá lệ thuộc vào Mỹ đã không thể cáng đáng được kinh phí này, nên đã gần như phải dựa hoàn toàn vào viện trợ kinh tế của Mỹ để có thể thực hiện phòng thủ trước đối phương có sức mạnh phù hợp với hình thái chiến tranh thực địa hơn.
 
Khi Mỹ giảm viện trợ xuống còn 1,1 tỷ đô la vào năm 1974, nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa lâm vào cuộc khủng hoảng với lạm phát ở mức 200%<ref name="Andrew A. Wiest 1975">Andrew A. Wiest, The Vietnam War, 1956-1975, 2002, Osprey Publishing, tr. 80</ref>. Quân lực Việt Nam Cộng hòa vốn không được tổ chức thích hợp, sử dụng hỏa lực quá tốn kém lại cộng thêm nạn tham nhũng nên đã rơi vào tình trạng thiếu kinh phí để duy trì mức hoạt động như trước. Cùng với đó, sự yếu ớt về tinh thần chiến đấu của binh sĩ và những sai lầm từ cấp chỉ huy khiến các kế hoạch tác chiến nhanh chóng thất bại. Chỉ sau 55 ngày đêm [[Chiến dịch Mùa Xuân 1975]] của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng quân đội với hơn 1 triệu quân này đã hoàn toàn tan rã.<ref>Andrew A. Wiest, The Vietnam War, 1956-1975, 2002, Osprey Publishing, tr.80</ref>