Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thái tử phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 8:
Thời kì [[Tiên Tần]], khi [[nhà Chu]] tại lập, lập [[Trữ quân]] làm ''Vương thái tử'', nguyên phối sẽ là '''Vương thái tử phi''' (王太子妃). Trong lịch sử Hàn Quốc, từ thời [[Tam Quốc (Triều Tiên)|Tam Quốc Triều Tiên]] đến [[nhà Cao Ly]], Quốc chủ xưng Vương, lập Trữ quân cũng là Vương Thái tử, nên phối ngẫu là ''Vương thái tử phi'', thời kì giữa thì đổi thành ''Vương thế tử'', do vậy có '''Vương thế tử phi''' (王世子妃).
 
Sau khi [[nhà Hán]] thành lập, để phân định ngôi thứ, đã lập nên '''[[Hoàng Tháithái tử''']], phối ngẫu do đó trở thành '''Hoàng thái tử phi''' (皇太子妃). [[Bạc hoàng hậu (Hán Cảnh Đế)|Hiếu Cảnh Bạc hoàng hậu]] của [[Hán Cảnh Đế]] là vị Hoàng thái tử phi đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử<ref>《汉书·卷九十七上·外戚传第六十七上》孝景薄皇后,孝文薄太后家女也。景帝为太子时,薄太后取以为太子妃。景帝立,立薄妃为皇后,无子无宠。</ref>. Thời đại về sau, ở Trung Quốc lẫn các quốc gia Đông Á đều xưng [[Hoàng đế]], do vậy cụm từ ''"Thái tử phi"'' chỉ còn ám chỉ đến ''"Hoàng thái tử phi"'' mà thôi.
 
Tại [[Hàn Quốc]], quốc gia này vào chưa từng chính thức xưng Hoàng đế, nên Trữ quân chỉ có [[Thế tử]], và phối ngẫu là [[Thế tử tần]]. Vào thời [[Triều Tiên Cao tông]], do sự bảo hộ của Nhật Bản mà thành lập Đại Hàn Đế quốc, nên danh vị cũng theo hoàng gia. [[Thuần Trinh Hiếu hoàng hậu]] là vị Hoàng Thái tử phi đầu tiên, duy nhất và cuối cùng trong lịch sử Hàn Quốc.