Khác biệt giữa bản sửa đổi của “McDonnell Douglas F/A-18 Hornet”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Rudotua (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
n Typo fixing, replaced: London → Luân Đôn, Mexico → México, vùng Vịnh → Vùng Vịnh (5) using AWB
Dòng 21:
}}
|}
 
 
'''McDonnell Douglas''' (hiện tại là [[Boeing]]) '''F/A-18 Hornet''' là một [[máy bay chiến đấu đa nhiệm|máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm]] [[tốc độ siêu thanh|siêu thanh]] hai động cơ có khả năng [[máy bay hoạt động trên tàu sân bay|hoạt động trên tàu sân bay]] trong mọi thời tiết, có khả năng [[chiến đấu]] và [[máy bay cường kích|tấn công các mục tiêu mặt đất]] (F/A viết tắt của Fighter/Attack – Chiến đấu/Tấn công). Do [[McDonnell Douglas]] và [[Northrop Corporation|Northrop]] thiết kế, F/A-18 xuất xứ từ mẫu [[Northrop YF-17|YF-17]] của Northrop trong thập niên 1970 để sử dụng trong [[Hải quân Hoa Kỳ]] và [[Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân lục chiến]]. Chiếc Hornet cũng được sử dụng trong lực lượng không quân của nhiều quốc gia. Đây là loại máy bay trình diễn của Phi đội Trình diễn Bay của Hải quân Hoa Kỳ, [[Blue Angels]], từ năm 1986.
Hàng 41 ⟶ 40:
 
=== Thiết kế lại YF-17 ===
Dù YF-16 dành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh LWF, Hải quân nghi ngờ rằng một loại máy bay một động cơ với bộ bánh đáp hẹp có thể dễ dàng hay tương thích một cách kinh tế với hoạt động trên tàu sân bay, và từ chối chấp nhận loại máy bay xuất xứ từ F-16 này. Ngày 2 tháng 5 năm 1975 Hải quân thông báo họ lựa chọn YF-17.<ref>Donald, David ed. "Boeing F/A-18 Hornet". ''Warplanes of the Fleet''. LondonLuân Đôn: AIRtime, 2004. ISBN 1-880588-81-1.</ref> Bởi LWF không có cùng những yêu cầu thiết kế như VFAX, Hải quân đã yêu cầu McDonnell Douglas và Northrop phát triển một loại máy bay mới từ thiết kế và các nguyên lý của YF-17. Ngày 1 tháng 3 năm 1977 Bộ trưởng Hải quân W. Graham Claytor thông báo rằng F-18 sẽ được đặt tên là "Hornet".<ref name=Jenkins_p19/>
 
[[Tập tin:F18-on catapult.jpg|nhỏ|trái|F/A-18C được gắn vào máy phóng trên boong tàu {{USS|Abraham Lincoln|CVN-72}}|alt=Side nose view of bluish gray jet aircraft on aircraft carrier out at sea on clear day. Green-topped personnel wearing earmuffs standing close by, preparing the aircraft for launch towards right]]
Hàng 109 ⟶ 108:
F/A-18 lần đầu tham chiến tháng 4 năm 1986, khi những chiếc Hornet của phi đội VFA-131 Hornets từ tàu [[USS Coral Sea (CV-43)|USS ''Coral Sea'']] thực hiện các phi vụ SEAD chống lại các lực lượng phòng không Libya trong [[Hành động trong Vịnh Sidra (1986)|Chiến dịch Lửa Thảo nguyên]] và một cuộc tấn công vào [[Benghazi]] như một phần của [[Chiến dịch El Dorado Canyon]].<ref name=Jenkins_p42-4>Jenkins 2000, các trang 42–44.</ref>
 
Trong cuộc [[chiến tranh vùngVùng Vịnh]] năm 1991, Hải quân triển khai 106 chiếc F/A-18A/C Hornet và Thủy quân lục chiến triển khai 84 chiếc F/A-18A/C/D Hornet.<ref name=Jenkins_p71>Jenkins 2000, p. 71.</ref> Hai chiếc F/A-18 của Hải quân bị tiêu diệt cùng phi công: ngày 17 tháng 1 năm 1991, ngày đầu tiên của cuộc chiến, Thiếu tá hải quân [[Scott Speicher]] thuộc phi đội [[VFA-81]] bị bắn hạ và thiết mạng khi máy bay của ông lao xuống đất.<ref>[http://www.defenselink.mil//news/newsarticle.aspx?id=55338 "Officials Identify Gulf War Pilot’s Remains."] ''US Navy'', ngày 2 tháng 8 năm 2009. Truy cập: ngày 1 tháng 11 năm 2009.</ref> Chiếc F/A-18 kia do Đại úy hải quân Robert Dwyer (người được thống kê chính thức là [[killed in action|thiệt mạng trong khi thi hành nhiệm vụ, thi thể không được tìm thấy]]) điều khiển, mất tích ở [[vịnh Ba Tư|phía bắc vịnh Persian]] sau một phi vụ thành công vào [[Iraq]].
 
Cá phi công F/A-18 được công nhận thực hiện hai chiến công trong Chiến tranh vùngVùng Vịnh, cả hai đều là trước những chiếc [[Mikoyan-Gurevich MiG-21|MiG-21]].<ref>Miller, David. ''The Illustrated Directory of Modern Weapons''. St. Paul, Minnesota: MBI Publishing Company, 2002. ISBN 0-7603-1346-6.</ref> Ngày 17 tháng 1, ngày đầu tiên của cuộc chiến, hai phi công của Hải quân Mỹ, Thiếu tá [[Mark I. Fox]] cùng người hộ tống, Đại úy Nick Mongilio được điều từ tàu [[USS Saratoga (CV-60)|USS ''Saratoga'']] tại [[Biển Đỏ]] tới ném bom một sân bay ở tây nam Iraq. Khi đang trên đường thực hiện nhiệm vụ, họ được một chiếc E-2C cảnh báo về máy bay MiG-21 đang tiếp cận. Những chiếc Hornet đã bắn hạ hai chiếc MiG với các tên lửa [[AIM-7]] và [[AIM-9]] trong một cuộc hỗn chiến ngắn. Những chiếc F/A-18, mỗi chiếc mang bốn quả bom {{convert|2000|lb|abbr=on}}, sau đó tiếp tục thực hiện nhiệm vụ ném bom trước khi quay trở về ''Saratoga''.<ref name=FedAmSci/><ref name=Boeing_Milestones/> Khả năng tồn tại của máy bay Hornet đã được chứng minh khi một chiếc Hornet bị bắn trúng cả hai động cơ và bay {{convert|125|mi|km|abbr=on}} quay lại căn cứ. Nó đã được sửa chữa và bay lại trong vài ngày. Những chiếc F/A-18 đã thực hiện 4,551 lần xuất kích với 10 chiếc bị thiệt hại gồm cả hai chiếc mất.<ref name=Jenkins_p72>Jenkins 2000, p. 72.</ref>
 
Khi loại máy bay A-6 Intruder được cho nghỉ hưu trong thập niên 1990, vai trò của nó được F/A-18 đảm nhiệm. F/A-18 đã chứng minh độ tin cậy và khả năng linh hoạt của nó trong [[Chiến tranh vùngVùng Vịnh|Chiến dịch Bão táp Sa mạc]], bắn hạ các máy bay chiến đấu đối phương và sau đó ném bom các mục tiêu địch trong cùng một phi vụ. Nó đã phá vỡ các kỷ lục về độ tin cậy, khả năng và hoạt động và khả năng duy trì.
 
Cả các model F/A-18A/C cả hải quân và F/A-18A/C/D của Thủy quân lục chiến đều được sử dụng liên tục trong [[Chiến dịch Southern Watch]] và tại Bosnia và Kosovo trong thập niên 1990. Những chiếc Hornet của Hải quân hoạt động trong [[Chiến tranh Afghanistan (2001-hiện tại)|Chiến dịch Tự do Bền vững]] năm 2001 xuất phát từ các tàu sân bay hoạt động ở Biển bắc Ả Rập. Cả các biến thể F/A-18A/C và biến thể F/A-18E/F đều được dùng trong [[Chiến tranh Iraq|Chiến dịch Tự do Iraq]] năm 2003, xuất kích từ các tàu sân bay cũng như từ các căn cứ không quân ở Kuwait. Sau này trong cuộc xung đột các model USMC A+, C, và chủ yếu là model D xuất kích từ các căn cứ bên trong Iraq.
Hàng 139 ⟶ 138:
Canada là khách hàng xuất khẩu đầu tiên của Hornet, thay thế cho loại [[Canadair CF-104|CF-104 Starfighter]] (trinh sát trên không và tấn công), [[McDonnell CF-101 Voodoo]] (đánh chặn) và [[Canadair CF-5|CF-116 Freedom Fighter]] (tấn công mặt đất). [[Bộ tư lệnh Không quân Canada]] đã đặt hàng 98 chiếc model A (tên định danh Canada [[McDonnell Douglas CF-18 Hornet|CF-188A/CF-18A]]) và 40 chiếc model B (tên định danh CF-188B/CF-18B).
 
Năm 1991, Canada đưa 26 chiếc CF-18 tham gia Chiến tranh vùngVùng Vịnh, đóng tại Qatar. Tháng 6 năm 1999, 18 chiếc CF-18 được triển khai tới Aviano AB, Italia, nơi chúng tham gia vào cả vai trò tấn công mặt đất và không chiến tại Nam Tư cũ.
 
62 chiếc CF-18A và 18 chiếc CF-18B đã tham gia vào Dự án Hiện đại hóa được hoàn thành trong hai giai đoạn. Chương trình được bắt đầu năm 2001 và chiếc máy bay được nâng cấp cuối cùng được giao năm 2010. Các mục tiêu là cải thiện các tính năng chiến đấu đối không và đối đất, các cảm biến cải tiến và bộ trang bị phòng vệ, và thay thế các đường dẫn dữ liệu và hệ thống liên lạc trên CF-18 từ tiêu chuẩn F/A-18A và F/A-18B sang tiêu chuẩn F/A-18C và D hiện tại.<ref>[http://www.casr.ca/id-cf18-oag1.htm "Auditing the Upgrades to the CF-18 Fighter Aircraft (Part 1)."] ''casr.ca'', December 2004. Truy cập: ngày 8 tháng 6 năm 2010.</ref><ref>Ng, Allen. [http://www.casr.ca/id-cf18-3-1.htm "The CF18 Incremental Modernization Program – In Detail 'Not Your Father’s Hornet – the CF18 Incremental Modernization Program'."] ''casr.ca'', December 2003. Truy cập: ngày 8 tháng 6 năm 2010.</ref>
Hàng 155 ⟶ 154:
 
==== Kuwait ====
[[Không quân Kuwait]] (''Al Quwwat Aj Jawwaiya Al Kuwaitiya'') đã đặt hàng 32 chiếc F/A-18C và 8 chiếc F/A-18D Hornet năm 1988 và việc giao hàng bắt đầu tháng 10 năm 1991.<ref name=Jenkins_p93-4>Jenkins 2000, các trang 93–94.</ref> Những chiếc F/A-18C/D thay thế cho loại A-4KU Skyhawk. Những chiếc Hornet của Không quân Kuwait đã thực hiện các phi vụ tại Iraq trong [[Chiến dịch Southern Watch]] hồi những năm 1990. Chúng cũng tham gia vào những cuộc diễn tập quân sự với các lực lượng không quân của các quốc gia vùngVùng Vịnh khác.<ref name=Jenkins_p96>Jenkins 2000, p. 96.</ref> Kuwait had 39 F/A-18C/D Hornets in service in 2008.<ref>[http://www.milaviapress.com/orbat/kuwait/index.php "Kuwait Air Force: Order of Battle."] ''milaviapress.com''. Truy cập: ngày 5 tháng 4 năm 2010.</ref>
 
==== Malaysia ====
Hàng 226 ⟶ 225:
*Ngày 14 tháng 9 năm 2004, một chiếc F/A 18C đã bị rơi khi vừa bay tới để hạ cánh tại Tindal, Úc.
*Ngày 20 tháng 9 năm 2004, một chiếc F/A 18A đã rơi khi đi quá đường băng, phi công kịp nhảy ra ngoài.
*Ngày 01 tháng 12 năm 2004, một chiếc F/A 18A đã rơi ngoài khơi Vịnh MexicoMéxico, phi công kịp nhảy ra ngoài.
*Ngày 29 tháng 1 năm 2005, một chiếc F/A-18F đã rơi khi cố hạ cánh trên chiếc USS Kitty Hawk gần Yokosuka, Nhật Bản.
*Ngày 02 Tháng 5 năm 2005, hai chiếc F/A-18F đã đâm nhau trên bầu trời Iraq khiến cả hai phi công thiệt mạng.