Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Doãn Khuê”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Typo fixing, replaced: biển Đông → Biển Đông (2), ệ tam → ệ Tam (2), ệ tứ → ệ Tứ (17), hế kỷ 20 → hế kỷ XX, nhà Nguyễn → Nhà Nguyễn (5), nhà Thanh → Nhà Thanh (3) using AWB |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 2:
'''Doãn Khuê''' ([[chữ Hán]]: 尹奎; 1813-1878) là quan [[Nhà Nguyễn]] trong [[lịch sử Việt Nam]]. Ông từng giữ các chức Đốc học các tỉnh [[Nam Định]] và [[Sơn Tây (tỉnh Việt Nam)|Sơn Tây]] kiêm Doanh điền sứ, Hải phòng sứ các tỉnh [[bờ biển|duyên hải]] [[Bắc Kỳ]]. Ông là một trong số ít các vị quan lại tiến bộ dưới thời vua [[Tự Đức]], triều đại suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam.
Trên cương vị Doanh điền sứ, ông tổ chức dân nghèo vùng biển lập làng khai hoang, nhưng đồng thời với hoàn cảnh lịch sử lúc này, nhiệm vụ này lại tạo nên lực lượng dân binh, để sau này kháng chiến khi quân Pháp đánh ra Bắc
Ông là một nhà giáo yêu nước, tiến bộ, đào tạo nhiều học trò ưu tú - đều là lãnh tụ của các cuộc kháng chiến chống thực dân [[Pháp]]. Đồng thời, ông là một viên quan yêu nước, sớm đứng trong hàng ngũ quan lại chủ chiến chống Pháp đến cùng. Ông là một trong những người đầu tiên tự giác đứng lên lãnh đạo cuộc kháng chiến chống [[Pháp]], khi Pháp xâm lược Bắc
==Thân thế và sự nghiệp==
Dòng 20:
Trước đó, năm 1852, Phạm Văn Nghị cũng đã cáo quan về nhà dạy học và khai khẩn đất hoang vùng ven biển [[Nghĩa Hưng]]. Năm 1854, Phạm Văn Nghị đã mời Doãn Khuê cùng tham gia khai khẩn đất hoang với mình. Phạm Văn Nghị cắt vùng đất phía Đông của trại Sĩ Lâm (thuộc ấp Một của trại này) mà ông Nghị vừa bắt đầu khai phá xong tặng cho Tiến sĩ Doãn Khuê. Doãn Khuê đã đưa người con trai thứ ba của mình là Doãn Thúc Bình (tức Doãn Vị) xuống làm ấp trưởng. Cha con Doãn Khuê đã chiêu mộ dân các nơi về đây khai hoang mở đất, và đặt tên cho làng mới là làng Thư Điền (với ý nghĩa mong cho dân làng được no ấm và học hành). Làng Thư Điền này, nhờ có nỗ lực của cha con Doãn Khuê cùng dân cư các nơi được Doãn Khuê chiêu mộ, về sau phát triển thành xã [[Nghĩa Thành, Nghĩa Hưng|Nghĩa Thành]] huyện Nghĩa Hưng.
[[Tháng chín|Tháng 9]] năm [[1858]] ông, đã thay bạn là [[Hoàng giáp]] [[Phạm Văn Nghị]], làm Đốc học tỉnh [[Nam Định]] (quan chánh ngũ phẩm), để ông Nghị mộ nghĩa quân vào Nam chống Pháp. Tháng 3 [[âm lịch]] năm 1860, thấy việc triều đình Nhà Nguyễn nghị hòa với quân Pháp khi mất 3 tỉnh miền
=== Hoạt động ở Sơn Tây ===
[[Tập tin:VanMieuSonTay.jpg|nhỏ|phải|Văn miếu Sơn Tây, nơi liên quan đến công việc đốc học Sơn Tây của Doãn Khuê những năm 1861-1862.]]
Đầu năm 1861, Tự Đức điều ông lên Sơn Tây làm Đốc học và tổ chức kỳ [[thi Hương]] ở tỉnh này (ông làm quan Đề điệu (chủ khảo) kỳ thi Hương này). Những năm tháng này ở hai đầu đất nước Việt Nam đều có giặc giã, [[Nam Kỳ
Khi nghiên cứu về những năm tháng ở Tam tuyên của Doãn Khuê, Phạm Thị Lan ở Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thái Bình, có viết trong cuốn sách ''Danh nhân Thái Bình'', như sau: ''... Hàng loạt các thắng lợi ở Tam tuyên là nguồn khích lệ tinh thần quân dân vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, tình hình trên toàn bộ quân thứ Bắc
Tháng 8 âm lịch năm 1862, Nguyễn Tri Phương ra tới Tây Bắc. Nhưng tháng sau, là tháng 8 nhuận Tổng đốc Tam tuyên Bùi Ái mất <ref>Đại Nam thực lục Tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XXVII-trang 786, 791.</ref>. Theo Phạm Thị Lan thì: ''Lúc Bùi Ái ốm nặng, Tự Đức có xuống chiếu cho Doãn Khuê thụ chức của Bùi Ái, nhưng Doãn Khuê xin không nhận mà vẫn xin tạm quyền cho đến khi hết giặc, thì ông muốn trở lại làm đúng cương vị Đốc học mà ông yêu thích và có sở trường.'' <ref>Trang 386-bài ''Doãn Khuê'', sách ''Danh nhân Thái Bình'' của Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình, năm 2003.</ref>. Theo [[Đại Nam thực lục]]: ''Bùi Ái mất, vua cho Nguyễn Bá Nghi thụ chức Tổng đốc nhưng vẫn kiêm Tiêu biện quân vụ.'' <ref>Đại Nam thực lục Tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XXVII-trang 791.</ref>. Do phải kiêm lý, nên trong những ngày này vai trò Tổng đốc của Nguyễn Bá Nghi vẫn mờ nhạt, trong khi Doãn Khuê vẫn hoạt động rất tích cực, sách Đại Nam thực lục cũng ghi nhận các hoạt động tích cực đó của Doãn Khuê. Tháng 9 âm lịch năm 1862, Doãn Khuê chỉ huy quân thứ Tam tuyên tiến đánh lấy lại được các phủ huyện [[Thanh Ba]], [[Lâm Thao]] của tỉnh Sơn Tây và các huyện [[Yên Lập]], [[Văn Chấn]] của tỉnh Hưng Hóa, bắt được hai đầu sỏ của quân thổ phỉ là giặc Bằng, giặc Cơ rồi đem xử tử <ref name="ReferenceA">Đại Nam thực lục Tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XXVII-trang 795.</ref>. Trong khi đó, Doãn Chi tức Doãn Đê (尹[[Sao Đê|氐]]), con cả của ông dẫn quân sang Hạ Hòa chi viện cho Doãn Trứ và Doãn Giốc. Nhưng trong khi chiến đấu trên chiến trường, Doãn Trứ và Doãn Giốc đều hy sinh vào đầu tháng 10 âm lịch năm 1862. Tới tháng 12 năm 1864, nhà vua đã truy xét cấp tiền tuất cho Doãn Trứ, Doãn [[Sao Giác|Giốc]] (尹角) và truy tặng Doãn Giốc hàm Hàn lâm điển bạ <ref>Đại Nam thực lục Tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XXX-trang 890.</ref>. Sau khi thu nạp lại được huyện Hạ Hòa, miền Tam tuyên tạm yên, Doãn Chi, được lệnh của Nguyễn Tri Phương, mang quân đi tiễu phỉ ở Lạng Sơn. Theo Phạm Thị Lan: ''...Khi đạo quân của Nguyễn Tri Phương từ Tây Bắc trở về Bắc Ninh để dẹp giặc ở đạo Đông Bắc, Doãn Khuê đã chuẩn bị sẵn hương dõng của Sơn Tây đi theo giúp, đồng thời ông cho quân dàn ra dọc [[sông Hồng]] chặn giặc bảo vệ cho đoàn quân hành binh an toàn.'' Còn theo Đại Nam thực lục thì viết rằng: "''Nguyễn Tri Phương đem quân đánh miền Bắc, đã phá được tổ giặc ở [[Chí Linh]], bèn đóng ở phía nam sông Chiêm Đức (tức Thiên Đức) ngầm sai [[Hà Nội]], Sơn Tây đều dàn các thuyền làm ra vẻ muốn sang sông, để chia thế giặc...''" <ref name="ReferenceA"/>. Mặt trận Tam tuyên tạm yên. Sau thắng lợi này ông xin thôi công việc của một Hộ đốc Sơn Tây trả lại cho Nguyễn Bá Nghi trở về dạy học, vào đầu tháng 1 năm Quý Hợi (1863). Thực sự thì vào tháng 1 năm 1863, chức Tuần phủ Sơn Tây của Bùi Ái thụ lý trước đây, mới chính thức được trao cho Nguyễn Bá Nghi, sách Đại Nam thực lục cũng ghi rõ điều này: "''..., Hộ lý Tổng đốc Sơn – Hưng - Tuyên là Nguyễn Bá Nghi đổi bổ thụ Tuần phủ miễn cho không phải cách lưu;...''" <ref>Đại Nam thực lục Tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XXVIII-trang 802.</ref>.
Dòng 39:
==== Doãn Khuê với việc mở cảng Hải Phòng ====
Tháng 8 âm lịch năm [[Mậu Thìn]] (1868), [[Trần Đình Túc]] đi ngoại giao (đáp lễ [[anh|nước Anh]]) từ [[Hồng Kông]] (Hương Cảng) trở về <ref>Tập 7, Đại Nam thực lục, đệ tứ kỷ-quyển XXXIX, trang 1129.</ref>, đã cùng [[Nguyễn Huy Tề]] trình tấu với Tự Đức rằng: nên cho mở thương cảng tại cửa biển [[sông Trà Lý|Trà Lý]] (nay thuộc Thái Bình) khi đó thuộc tỉnh Nam Định. Trần Đình Túc, trước khi đi sứ làm Doanh điền sứ tỉnh [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]], sang Hồng Kông thấy thành phố này vốn cũng chỉ là một làng chài nhỏ sau khi vào tay người Anh đã trở thành hải cảng sầm uất, do đó cũng lấy đó làm gương định áp dụng vào nước Nam. Khi Đình Túc trình tấu lên, Tự Đức đưa ra triều thần hội nghị. Vua đem hỏi Đào Trí cùng Doãn Khuê những viên quan coi giữ mạn biển Nam Định (Đào Trí trước khi là Tổng đốc Hà Nội đã từng là Tổng đốc Nam Định, vua cho là có nhiều kinh nghiệm thủy thổ Nam Định, còn Doãn Khuê thì là người địa phương và đang trực tiếp quản vùng cửa biển Trà Lý). Theo Phạm Thị Lan: ''Đào Trí là Thống đốc nên không nắm được vấn đề. Riêng Doãn Khuê, làm tập tấu rằng "không thể mở phố cảng ở cửa biển Trà Lý được"…'' <ref>bài ''Doãn Khuê'', sách ''Danh nhân Thái Bình'' trang 389</ref>. Do là người địa phương Doãn Khuê hiểu rõ điều kiện thổ nhưỡng (phù sa bồi lắng), thuỷ văn (dòng chảy hẹp hay thay đổi) và thuỷ triều của vùng cửa Trà Lý thuộc các huyện [[Tiền Hải]], [[Kiến Xương|Chân Định]], ông đề xuất nên mở cảng ở vùng cửa [[sông Cấm]] (tại Ninh Hải thuộc [[Hải Dương]]), nơi gần cửa [[sông Bạch Đằng]], vốn là vùng nước sâu ít phù xa bồi lắng hơn, lòng sông rộng rãi hơn, cũng thông thương đường thủy được với Hà Nội và các tỉnh xuôi ngược. Tuy vây, Tự Đức đã cho tạm gác việc mở cảng lại. Về việc này trong ''Quốc triều chính biên toát yếu'' [[Cao Xuân Dục]] chỉ viết:'' … Khâm phái Trần Đình Túc từ Hương Cảng trở về (trước qua tạ ơn nước Anh), ngài khiến lại coi việc đồn điền (doanh điền sứ). Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tề tâu: "Chúng tôi xét cửa biển Trà Lý thuộc tỉnh Nam Định, bãi cát cao rộng, nhà cửa ở được yên ổn, cửa biển hơi sâu, tàu thuyền đậu được vững vàng, đàng thủy thông tới tỉnh Nam Định …đến mấy hạt miền thượng du …, qua lại thuận tiện, …, chỗ ấy cũng là chỗ tốt. Vậy xin cho mở hang buôn bán, cho dân tới buôn và nhóm của thiên hạ để tính chuyện lâu dài". Ngài giao đình thần nghị, nhưng rồi không thấy thi hành.''<ref>[http://www.viethoc.org/eholdings/sach/qtcbty.pdf Sách ''Quốc triều chính biên toát yếu'' bản điện tử, trang 185.]</ref>. Nhưng đối với Doãn Khuê thì việc mở cảng trấn hưng kinh tế nước nhà không dừng lại ở đây. Năm 1871, khi chuyển sang làm Doanh điền sứ kiêm Thương biện hải phòng sứ, Doãn Khuê đã tìm được một người trẻ tuổi nhưng có "tài kinh bang tế thế" ra giúp việc cho mình trong nha Doanh điền sứ, đó [[Bùi Viện]]. Đại Nam thực lục chép rằng: Tháng 3 năm Tân Mùi (1871), …"''Doanh điền sứ tỉnh Nam Định là Doãn Khuê xin làm nha Doanh điền ở huyện Tiền Hải; phó Doanh điền sứ Đỗ Phát xin tạm đặt Nha làm việc ở xã Kiên Lao, để tiện việc trông nom. Lại các người làm việc đều là học trò của mình, xin tạm cấp cho văn bằng làm việc, đợi sau này được việc, lượng cho khen thưởng. Vua y cho …''" <ref>Đại Nam thực lục Tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLIV-trang 1271.</ref>. Một trong những học trò được tạm xếp làm việc tại nha Doanh điền Tiền Hải chính là Bùi Viện. Bùi Viện, quê làng Trình Phố huyện Chân Định (nay thuộc Tiền Hải), Cử nhân năm 1868, năm 1871 từng giúp Đề đốc [[Lê Tuấn]] (người Trung
==== Công việc Doanh điền sứ ====
Dòng 50:
*''Xin đặt chức Sát phỏng sứ cả trong Nam ngoài Bắc.''
*''Đặt sở đồn điền ở tỉnh Sơn Tây, tỉnh Hưng Hóa.''
''Vua giao cho đình thần xét lại, rồi sau bỏ đi …'' <ref name="Tập 7 1206">Đại Nam thực lục Tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XLI-trang 1206.</ref> không cho thi hành. Tuy nhiên ông cố gắng thực hiện kế hoạch trên của mình, nửa cuối năm 1869 ông lên Hưng Hóa bàn với học trò cũ của mình là Nguyễn Quang Bích liên thủ mở rộng khai hoang đồn điền ở cả hai nơi: miền núi (Hưng Hóa) và miền biển (Nam Định), làm kế lâu dài phòng giữ Bắc
Tháng 11 âm lịch năm 1870, Doãn Khuê bàn bạc với Tổng đốc Định-Yên (Nam Định, [[Hưng Yên]]) là
[[Nguyễn Hiên]] tâu lên vua Tự Đức rằng: "''Các sông Ngư Long, Bán Thúy huyện Tiền Hải đều hút nước ở Lân Hải, nên phải ngăn chặn cho nước mặn không tràn vào được. Lại ở sông Liêm Giang, phía trên từ cửa sông Nguyệt Lâm suốt đến cửa khe Trình Phố rẽ ngang ra sông Bán Thúy, xin đều cho khơi vét từng đoạn để đón lấy nước ngọt, cần phải rộng 8 trượng, sâu 5 thước, hai bên đều đắp đê nhỏ để chắn nước lụt. Công việc đào sông đắp đê, xin bắt dân phu 6 tổng ở huyện Tiền Hải và các tổng ở hai huyện [[Vũ Thư|Vũ Tiên]], Chân Định cùng đắp và làm, mở vào ruộng đất công, tư bao nhiêu, trừ vào ngạch ruộng, cho miễn thuế.''" Vua cho phép thực hiện đề xuất này.<ref>Đại Nam thực lục Tập bảy, đệ tứ kỷ-quyển XLIII, trang 1258.</ref>. Đến tháng 5 âm lịch năm 1871, Doãn Khuê lại tâu về triều: "''Về hạt huyện [[Thái Thụy|Thụy Anh]] các xã trên từ Thu Cúc đến Lỗ Tràng, đất bãi nổi lên bỏ hoang, xin giao cho lính mộ khai khẩn. Còn hạng ruộng cói xin sức cho dân khai vào sổ chịu thuế. Vua y cho …''" <ref>Đại Nam thực lục Tập bảy, đệ tứ kỷ-quyển XLIII, trang 1276.</ref>. Rồi tháng 6 nhuận năm 1873, ông lại tâu trình: "''Hai xã thôn Hạc Lương, Thuận An, ruộng đất vỡ lở, nhân dân xiêu tán, xin đem hạng đất bỏ hoang khó làm là 40 mẫu, Nguyễn Bá Phổ ở giáp Thận Hành nhận mua, chia giao cho hai xã thôn chiếu sổ nhận tiền.''" <ref>Đại Nam thực lục Tập bảy, đệ tứ kỷ-quyển XLVIII, trang 1395.</ref>. Vua cũng chuẩn y cho thi hành.
=== Kháng chiến chống Pháp xâm lược Bắc
Sau khi chiếm được Hà Nội ([[20 tháng 11]] năm [[1873]]), quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng bằng cách tiến đánh các tỉnh phía đông và nam Hà Nội. Pháp chiếm Hưng Yên ([[23 tháng 11]]), Phủ Lý ([[26 tháng 11]]), Ninh Bình ([[5 tháng 12]]). Ngày [[10 tháng 12]] năm 1873 (tức 21 tháng 10 năm [[Quý Dậu]]), quân Pháp từ Ninh Bình đánh sang Nam Định, quân Pháp tiến đánh đồn Độc Bộ trước. Ở đây, Phạm Văn Nghị, cùng Lãnh binh Nguyễn Văn Lợi chống Pháp quyết liệt. Doãn Khuê ở Cao Lộng kéo quân tới đồn Độc Bộ cùng Phạm Văn Nghị, Đỗ Phát, Nguyễn Văn Lợi chống Pháp. Các con ông là Doãn Chi (đang là Tri phủ Chân Định (tức Kiến Xương)) và Doãn [[Sao Vị|Vị]] (ở Nghĩa Thành, Nghĩa Hưng) đưa dân binh sang đến tiếp viện các đồn Cao Lộng, Phù Sa (tức là Độc Bộ). Nhưng sau nửa ngày, đồn Phù Sa vỡ và rơi vào tay Pháp, Phạm Văn Nghị cùng một số quan tướng khác rút về vùng núi An Hòa thuộc Ý Yên, còn Doãn Khuê và Đỗ Phát kéo về hỗ trợ thành Nam Định. Ngày [[11 tháng 12]] năm 1873, [[Francis Garnier]] hội quân đánh chiếm thành Nam Định theo hai hướng Tây và Nam với một lực lượng hỗn hợp gồm 111 quân. Tàu chiến Pháp từ [[sông Vị Hoàng]] bắn dữ dội vào thành, thành vỡ và rơi vào tay quân Pháp. Khi thành thất thủ, Doãn Khuê cùng các con về đóng tại Đông Vinh (nay là xã [[Vũ Vinh]] huyện [[Vũ Thư]] [[Thái Bình]]), phối hợp chặt chẽ với cha con Nguyễn Mậu Kiến (đặt căn cứ tại Động Trung huyện Tiền Hải) lập thành mặt trận chống Pháp bên tả ngạn sông Hồng. Mặt trận nay kéo dài từ bến Gùi (thuộc Nguyên Xá, Vũ Thư) chạy ra biển, đến Yên Tứ thuộc xã Nam Hải huyện Tiền Hải, nằm trên địa bàn 4 huyện Vũ Tiên, Thư Trì, Chân Định và Tiền Hải. Quân của Doãn Khuê và Nguyễn Mậu Kiến phối hợp với quân của Đỗ Phát và Phạm Văn Nghị bên bờ hữu ngạn bố trí lực lượng ngăn chặn quân Pháp. Trong khoảng cuối tháng 12 năm 1873 và đầu tháng 1 năm 1874, lực lượng của Doãn Khuê, Nguyễn Mậu Kiến đã đẩy lùi nhiều đợt tấn công bằng đường thủy của quân Pháp, do Garnier (Gác-ni-ê) rồi sau đó là Hatmand (Hác-măng) chỉ huy, đánh từ Hà Nội xuống, Nam Định sang và từ ngoài [[Biển Đông]] vào theo cửa Ba Lạt. Như các trận: làng Ngò (Ngô Xá-Vũ Thư), cửa Hưng (tức Vân Môn xã Đông Vinh), lực lượng của các ông đẩy lui được các cuộc tiến công của Garnier. Ngày [[31 tháng 12]], sau 10 ngày Garnier bị quân cờ đen của [[Lưu Vĩnh Phúc]] giết chết tại [[Cầu Giấy]], Hatmand vừa lên thay Garnier, đã dẫn quân từ Nam Định sang tấn công phủ thành Chân Định. Quân của Doãn Khuê, Nguyễn Mậu Kiến kháng cự quyết liệt, bắn hỏng một tàu chiến của Pháp.<ref>Sách ''Danh nhân Thái Bình'', bài ''Nguyễn Mậu Kiến'', trang 442.</ref> Theo [[Trần Văn Giàu]] và [[Đinh Xuân Lâm]]: Các văn thân Nam Định chia nhau từng huyện để tổ chức kháng chiến chống Pháp dọc hai bờ sông Hồng. Bên bờ bắc là trung tâm kháng chiến phủ Trực Định (hay Chân Định, tức Kiến Xương ngày nay) của Nguyễn Mậu Kiến làm quân Pháp e ngại nhất. [[Francis Garnier]] đã từng phải treo thưởng cho việc hạ sát lấy thủ cấp của Nguyễn Mậu Kiến. Khi Garnier tử trận Hatmand thay thế đánh dẹp không được. Trong các trận chiến do Hatmand chỉ huy đánh Chân Định đều có khoảng 200 đến 300 quân Pháp, thì trận gây thiệt hại cho quân Pháp lớn nhất là trận làng Ngô Xá (làng Ngò) phải rút lui về thành Nam Định. Nghĩa quân của Nguyễn Mậu Kiến, Doãn Khuê đánh chiếm được đồn Chân Định, phát hịch cho dân chúng biết Garnier đã tử trận ở [[trận Cầu Giấy (1873)|gần Cầu Giấy Hà Nội]]. Ngày 31 tháng 12 năm 1873, Hatmand đem hơn trăm quân cùng đại bác đánh nghĩa quân ở thành Chân Định, quân Nguyễn Mậu Kiến rút lui, nhưng Hatmand chỉ phá đại bác trên thành rồi rút trở về thành Nam Định, từ đó đến ngày 10 tháng 1 năm 1874 Hatmand không đánh qua sông sang Chân Định nữa. Ngày 10 tháng 1 năm 1874, quân Pháp hạ cờ tại thành Nam Định và trao trả lại cho quan Nhà Nguyễn từ Hà Nội xuống, chuẩn bị ký kết [[Hòa ước Giáp Tuất (1874)]].<ref>Lịch sử Cận đại Việt Nam, tập 1, của Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm và Nguyễn Văn Sự, trang 249-250.</ref>
|