Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thần Cao Sơn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 40:
 
==Tướng Cao Sơn, thời nhà Đinh==
Cao Sơn và [[Cao Các]] là hai anh em sinh đôi, sinh ngày 6/1/938 ở làng Cao Xá, huyện [[Thọ Xuân]], châu Ái (nay thuộc [[Thanh Hóa]]). Cha là ông Cao Trạch, mẹ là bà Lê Thị Điểm. Từ nhỏ, Cao Các đã học giỏi, thông minh tài trí hơn người; Cao Sơn võ nghệ tinh thông. Lớn lên, hai ông bỏ làng đi tìm minh chúa. [[Đinh Bộ Lĩnh]] phong Cao Các làm Giám Nghị đại phu, giao cho 5 vạn binh lính để đánh dẹp [[loạn 12 sứ quân]]. [[Cao Các]], Cao Sơn đã cùng các tướng sỹ lần lượt đánh bại và thu phục các sứ quân. Ngày 6 tháng 6 năm [[Đinh Mão]] (tức [[15 tháng 7]] năm [[967]]), [[Đinh Bộ Lĩnh]] điều một đạo quân do tướng [[Nguyễn Bồ]] chỉ huy tiến đánh sứ quân [[Nguyễn Siêu]]. Trong trận quyết liệt này [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]] bị mất 4 tướng là [[Nguyễn Bồ]], Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn cùng rất nhiều binh lính đều tử trận.<ref>Theo thần phả tại [[đình Ba Dân]] ở [[Thanh Trì]], [[Hà Nội]]</ref>
 
[[Đinh Bộ Lĩnh]] lại về quê [[Hoa Lư]] xây dựng kinh đô, xưng Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Ông ban cho Cao Các thực ấp ở huyện An Ninh, lo khuyến khích nghề nông, làm việc nghĩa, luyện tập võ nghệ phòng khi nước nhà có biến cố, giúp triều đình bảo vệ quê hương và đánh giặc cứu nước. Khi chúa [[Chiêm Thành]] là [[Xạ Đẩu]] đem quân uy hiếp [[Đại Cồ Việt]], vua Đinh triệu Cao Các về triều, giao cho 5 vạn binh lính, ấn kiếm đi đánh giặc. Cao Các cầm quân xông pha nhiều trận, quân Chiêm đại bại phải trốn về nước. Sau trận đại thắng, vua Đinh thưởng công Cao Các rất hậu, muốn lưu ông lại triều đình nhưng Cao Các xin về sống ở An Ninh. Ông lâm bệnh mất đột ngột, tin báo về triều đình [[nhà Đinh]] thương tiếc cho lập miếu thờ. Đến thời vua [[Lý Thái Tổ]], thấy đền miếu thiêng, biết ông là trung thần [[nhà Đinh]] bèn phong tặng Mỹ Tự Đại Vương. Các triều vua về sau phong sắc cho Ngài là Thượng Thượng đẳng tối linh Tôn thần. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã ban nhiều sắc phong, hiện tại đền vẵn còn lưu giữ 11 sắc phong do vua triều Lê và triều Nguyễn ban cho thần chủ của đền.