Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 156:
Nhà Đường coi An Nam là một trọng trấn và tăng cường bóc lột rất nặng dưới nhiều hình thức. Hằng năm các châu quận ở đây phải cống nạp nhiều sản vật quý ([[ngà]] [[voi]], [[đồi mồi]], lông trả, da cá, [[trầm hương]], [[vàng]], [[bạc]]...) và sản phẩm thủ công nghiệp ([[lụa]], [[tơ]], [[sa]], [[the]], đồ [[mây]], [[vô sắc lạp|bạch lạp]]...).
 
Ngoài việc cống nạp, người Việt Nam phải nộp nhiều loại thuế mới. Có nhiều loại thuế chính sử nhà Đường phải thừa nhận rằng các quan lại ở An Nam đã đánh thuế rất nặng<ref name="phl283">[[Phan Huy Lê]], [[Trần Quốc Vượng]], [[Hà Văn Tấn]], [[Lương Ninh]], sách đã dẫn, tr 283</ref>. Riêng thuế muối ở Lĩnh Nam hàng năm bằng 40 vạn quan tiền. Ngoài thuế muối và gạo, còn phải nộp thuế [[đay]], [[gai]], [[bông]] và nhiều thuế "ngoại suất" (thuế đánh 2 lần). Nhà Đường dựa vào tài sản chia làm ba loại thuế:
# Thượng hộ nộp 1 thạch 2 đấu
# Thứ hộ nộp 8 đấu
Dòng 163:
Các hộ vùng thiểu số nộp 1/2 số quy định trên. Song có những quan lại nhà Đường vẫn bắt người thiểu số nộp toàn bộ số thuế như các dân cư ở đồng bằng. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của người Việt, mà vụ chống thuế điển hình là [[Lý Tự Tiên]] và [[Ðinh Kiến|Đinh Kiến]] chống lại Lưu Diên Hựu năm 687.
 
Sử nhà Đường ghi nhận không ít các quan lại đô hộ vơ vét của cải của người Việt để làm giàu và chạy chức, thăng tiến. Cao Chính Bình "phú liễm nặng", Lý Trác "tham lam ăn hối lộ, phú thuế bạo ngược", bắt người dân miền núi phải đổi một con [[trâu]] [[bò]] chỉ để lấy được 1 đấu [[muối]]; Lý Tượng Cổ "tham túng, bất kể [[luật pháp]]"...<ref name="phl283"/>.
 
Để củng cố sự cai trị, nhà Đường tăng cường xây cất thành trì và quân phòng thủ ở [[Tống Bình]], châu Hoan, châu Ái. Trong phủ thành đô hộ Tống Bình, thường xuyên có 4.200 quân đồn trú. Ở vùng biên giới phía tây bắc như miền Lâm Tây, Lân, Đăng hằng năm có 6.000 quân trấn giữ gọi là quân "phòng đông" (phòng giữ vào mùa khô) để chống sự xâm lấn của nước [[Nam Chiếu]]. Thời gian đầu, nhà Đường chỉ dùng quân trưng tập từ phương bắc sang làm quân "phòng đông", nhưng từ thời [[Đường Trung Tông]]<ref>Nhiệm kỳ II, khi nữ hoàng [[Võ Tắc Thiên]] đã bị buộc thoái vị</ref> buộc phải dùng cả quân người Việt xen lẫn.