Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Văn học Việt Nam thời Tiền Lê”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Liên kết ngoài: xóa nguồn tự xb hoặc chết using AWB |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
'''Văn học Việt Nam thời Tiền Lê''' được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền [[văn học Việt Nam|văn học viết Việt Nam]] (để phân biệt với [[văn học dân gian]], văn học truyền khẩu đã ra đời rất lâu trước đó), với tư cách là một nền [[văn học]] chính thống của một [[quốc gia]] đã giành được [[độc lập]] tự chủ (để phân biệt với văn học của một bộ phận quan lại cai trị trên đất Việt thời Bắc thuộc trước đó). Thời kỳ này đã xuất hiện các tác phẩm nổi tiếng có đề tên tác giả người Việt. Dưới triều vua [[Lê Đại Hành]], ngoài chiến tích phá Tống
==Khái quát==
Văn học thời Tiền Lê đóng góp quan trọng trong việc khai mở nền [[văn học Việt Nam]]. Thời kỳ này đã xuất hiện những tên tuổi như [[Pháp Thuận|Đỗ Pháp Thuận]], [[Khuông Việt]]. Trước đây, theo [[quán tính]], [[người Việt]] thường gọi Thơ văn Lý
Thơ văn thời này, ngoài một số bài thơ - kệ của các Thiền sư, thấy có ba chủ đề, đề tài nổi bật:
Dòng 11:
==Tác phẩm==
===Thơ sấm===
Thời này được xem là "vỡ tổ sấm ký" <ref>Ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi</ref>. Người xưa quan niệm sấm là những điều hiện ra, bày ra trước (Sấm giả
{|-valign="top"
Dòng 31:
(Trần Quốc Vượng dịch).
''[[Đại Việt sử lược]]'' ghi lời sấm xuất hiện vào năm 974, để báo trước sự kiện sẽ diễn ra vào năm 979, [[Đại Việt sử ký toàn thư|''Đại Việt sử ký toàn thư'']] còn thêm cả chuyện [[loạn 12 sứ quân|12 sứ quân]] và triều Lý xuất hiện bằng một khổ thơ 4 câu. Về mặt [[văn học]], có thể xem lời sấm trên đây là sự phản ánh xung đột chết chóc, và điều tiên tri Hoàng đế anh minh sẽ xuất hiện. Thiền sư [[Vạn Hạnh]] "hễ nói ra điều gì, thiên hạ đều coi như lời sấm" <ref>Thiền uyển tập anh</ref>, đã hơn một lần báo trước [[Nhà Lý]] sẽ thay [[Nhà Tiền Lê]].
{|-valign="top"
|
Dòng 130:
===Nam quốc sơn hà===
{{chính|Nam quốc sơn hà}}
Chiến tích anh hùng của cộng đồng quốc gia [[Đại Cồ Việt]] thời đại [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]], gắn với sự xuất hiện của một [[Thơ|bài thơ]] huyền thoại: [[Nam quốc sơn hà|''Nam quốc sơn hà'']]. Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nhân đi tìm tác phẩm đầu tiên của [[Văn học Việt Nam|văn học dân tộc]], để phản bác một ngộ nhận: Bạch vân chiếu xuân hải - bài phú khoa Tiến sĩ thời Đường của Khương Công Phụ (người Việt gốc Hoa, đời thứ ba, thi đỗ lại trở về đất tổ, làm quan to, có lúc ngang Tể tướng thời Đường) là [[Tác phẩm văn học|tác phẩm]] đầu tiên của văn học Việt, nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân đã chú ý đến xuất xứ của bài thơ [[Nam quốc sơn hà|''Nam quốc sơn hà'']]. GS. [[Trần Quốc Vượng]] mách cho những dòng viết của GS. [[Hà Văn Tấn]], trong bài ''Lịch sử, sự thật và sử học''<ref>(Tổ Quốc - 401 - 1 - 1988)</ref>.
:"Không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ ''Nam quốc sơn hà'' là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả của bài thơ. Nhưng đó là đoán thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng, cho đến nay mọi người dường như đều tin rằng đó là sự thật, hay nói đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật".
Qua xuất xứ<ref>Các nội dung dưới đây đã được viết thành nhiều bài, đăng tải trên nhiều sách báo, tạp chí (Xưa & Nay, Nghiên cứu văn học, Tạp chí Hán Nôm, Văn hóa dân gian, Thế giới mới, Văn nghệ, Văn hiến Hà Nội, Lý Công Uẩn và Vương triều Lý, Khảo và luận, Từ điển tác gia - tác phẩm, Hợp tuyển văn học trung đại, Sách giáo khoa Văn học 9, Tư liệu văn học 10 v.v...), soạn thành giáo án giảng giải ở hàng trăm giảng đường đại học và cao học, cấu tạo thành lời cho nhiều hội thảo, nhiều cuộc chuyện trò, trao đổi... Tất cả đều một kết luận: Nam quốc sơn hà là bài thơ thần, vô danh, không phải của Lý Thường Kiệt như đã ngộ nhận. Kết luận này tuy khoa học, và không kém phần thuyết phục, nhưng ngược lại một định luật, tuy không đúng nhưng từ lâu đã ăn sâu vào tâm thức đại chúng, nhất là khi đất nước chống ngoại xâm, vì thế không dễ có ngay sự đồng thuận rộng rãi. Đành chờ đợi, chắc cũng chẳng bao xa, khi mà toàn bộ sách giáo khoa trung học bộ mới, cả sách lịch sử và ngữ văn đều đã khẳng định: Nam quốc sơn hà là bài thơ thần, Lý Thường Kiệt có thể chỉ là người sử dụng bài thơ thần, để động viên quân sĩ xung trận mà thôi.</ref> bài [[Nam quốc sơn hà]] cho thấy:
#Không có một [[văn bản]] nào ghi nhận [[Lý Thường Kiệt]] là [[Tác giả văn học|tác giả]], hoặc tương truyền là tác giả bài thơ.
#Tất cả các văn bản đều ghi nhận bài thơ là của thần. Thần đây là [[Thánh Tam Giang|Trương Hống]], [[Thánh Tam Giang|Trương Hát]], [[Chỉ huy quân sự|tướng lĩnh]] của [[Triệu Việt Vương|Triệu Quang Phục]], bị [[Hậu Lý Nam Đế|Lý Phật
#Thần đọc thơ của thần, âm phù dương gian trợ quốc an dân, chống ngoại xâm, dẹp nổi loạn, trừ tai hoạn, kể đã nhiều lần. Nổi bật là hai lần thần trực tiếp đọc thơ giúp các tướng lĩnh đánh giặc cứu nước. Lần thứ nhất giúp Lê Hoàn chống Tống (981), lần thứ hai giúp Lý Thường Kiệt chống Tống (1076). Văn bản bài thơ đọc hai lần khác nhau, và cũng khác nhau ở hầu hết các dị bản còn lại.<ref>bài [[Nam quốc sơn hà]] hiện hành, ở cả sách giáo khoa, thấy có ở văn bản Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, Trương Tôn thần sự tích - khuyết danh v.v... chỉ khác Đại Việt sử ký toàn thư: đảo "phận định" thành "định phận" (Xem Hợp tuyển văn học Trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản. Giáo dục, H. 2004).</ref>
#Bài thơ không hề được tuyển vào các tuyển tập thơ ca chữ Hán thời xưa, trước sau nó vẫn là thành phần cơ hữu trong [[Truyền thuyết|truyền thuyết dân gian]]. [[Nam quốc sơn hà|''Nam quốc sơn hà'']] chắc là do nhân sĩ thời tự chủ sáng tác, song đã được dân gian hóa, được hoàn thiện dần theo đặc trưng tập thể truyền miệng. Rồi sau được cố định trong thần tích, thần phả, truyện ký, nhưng vẫn lưu truyền trong dòng đời, qua nhiều thế hệ, âm phù con cháu đánh giặc cứu nước. Cho nên, phải coi đó là bài thơ thần, tác giả là khuyết danh cũng được, nhưng là vô danh, hoặc vô danh thị thì khoa học hơn.
#Từ trong những văn bản đáng tin cậy trên đây, có thể thấy: ngộ nhận Lý Thường Kiệt là tác giả [[Nam quốc sơn hà|''Nam quốc sơn hà'']] của [[Trần Trọng Kim]] trong [[Việt Nam sử lược|''Việt Nam sử lược'']] xuất bản từ
Về thời điểm xuất hiện của bài thơ Nam quốc sơn hà cũng như truyền thuyết [[Thánh Tam Giang|Trương Hống
{|-valign="top"
|
Dòng 166:
|}
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan... Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân, sai dân phụng thờ, huyết thực hưởng đời đời. ([[Lĩnh Nam chích quái]] - [[Trần Thế Pháp]] - [[Vũ Quỳnh]] - [[Kiều Phú]]).
Dựa vào tư liệu trên đây và nhiều văn bản truyền thuyết, thần tích được ghi chép lại trong có bài thơ thần ''Nam quốc sơn hà'', một số nhà nghiên cứu cho rằng bài thơ đã xuất hiện đầu thời tự chủ. Nhưng không phải là thời đã giành được chính quyền, nhưng vẫn tự xưng và tự phong là [[Tiết độ sứ]] từ Khúc Thừa Dụ đến Dương Đình Nghệ. Cũng không phải triều Ngô Quyền đã xưng vương, thể hiện ý thức tự chủ, sánh ngang với các chư hầu của thiên triều. Ngô Sĩ Liên chép bài thơ này vào kỷ nhà Lý, nên có người thời sau tưởng là thơ Lý Thường Kiệt. Thậm chí cũng không thể là triều Đinh, dầu cho thời này, vua đã dám xưng là [[Đinh Tiên Hoàng]], sánh so ngang ngửa với [[Tần Thủy Hoàng]] ngày xưa và [[Danh sách vua Trung Quốc|hoàng đế Trung Hoa]] cùng thời. Hơn nữa, thời này chưa có ngoại xâm lăm le ngoài cõi, chưa cần lời lẽ "tuyên ngôn". Mà là ở thời Hoàng đế [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]], như PGS.TS. Trần Bá Chí khẳng định: ''Nam quốc sơn hà'' là [[Tuyên ngôn độc lập|bản tuyên ngôn độc lập]], chỉ có thể ra đời sau [[Bắc thuộc|hàng ngàn năm Bắc thuộc]], nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà là ở thời Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị đã vững vàng, an định<ref>(Xem: Tạp chí Hán Nôm số 4-2003. Bài Về mấy bài Tuyên ngôn độc lập)</ref>. Nguyễn Thị Oanh trong một công trình nghiên cứu trên Tạp chí Hán Nôm (Số 1 - 2002), bài Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà cũng chỉ ra rằng: bài thơ Nam quốc sơn hà vốn xuất hiện thời [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]], như nhiều sách [[Lĩnh Nam chích quái|''Lĩnh Nam chích quái'']] đã ghi chép, nhưng nhà sử học [[Ngô Sĩ Liên]], theo quan điểm Nho giáo chính thống, ghét cái vô luân của [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]], ưa lòng trung nghĩa của [[Lý Thường Kiệt]], nên đã đem thơ thần phù trợ vua Lê gán cho phù trợ tướng Lý; nay nên trả bài thơ về cho sĩ dân thời đại [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]].
''Nam quốc sơn hà'' được coi như bản tuyên ngôn độc lập, vừa khẳng định chủ quyền, lãnh thổ, ngôi vị Nam đế, vừa thể hiện niềm tin ta thắng, địch thua, dựa vào thiên lý và chính nghĩa, là chủ đề của bài thơ, cũng là sự thăng hoa của tinh thần dân tộc thời phá Tống - bình Chiêm của triều đại [[Lê Đại Hành]]. Nhận định như thế là phù hợp với quy luật và tiến trình phát triển văn hoá, văn học, của lịch sử dân tộc.
===Quốc tộ===
{{chính|Quốc tộ}}
Kiệt tác thứ hai, ở triều đại Hoàng đế Lê Hoàn là một bài ngũ ngôn tuyệt cú của nhà sư [[Pháp Thuận]], danh gia đã đề cập tới ở phần trên, khi tiếp sứ Lý Giác. Theo [[Thiền uyển tập anh|''Thiền uyển tập anh'']], tác phẩm duy nhất còn giữ lại được văn bản bài thơ, thì [[Pháp Thuận|Đỗ Pháp Thuận]] (
{|-valign="top"
|
Hàng 196 ⟶ 197:
|}
Trong văn bản chữ Hán, bài thơ không có tên. Các tập thi tuyển thời xưa không tuyển bài này. Thơ văn Lý
Cũng như Nam quốc sơn hà, [[Quốc tộ]] là bài thơ giàu sắc thái chính luận, một bài thơ viết về những vấn đề chính trị xã hội hiện hành của đất nước. Để trả lời nhà vua "hỏi về vận nước ngắn dài", nhà thơ đã lấy ngôn từ giản dị mà thâm thúy, bày tỏ chính kiến của mình: "Vận mệnh nước nhà dài lâu, bền vững khi nhà vua dựng mở được nền thái bình bằng phương sách "vô vi nhi trị". Ba nhãn tự: quốc tộ, thái bình, vô vi vừa là điều kiện vừa là nhân quả cho nhau. "[[Quốc tộ]]" có nhiều nghĩa, trong văn cảnh cụ thể này, nên hiểu là vận mệnh quốc gia. "Thái bình" theo Hán Việt từ điển của GS. Đào Duy Anh: rất bình yên, thịnh trị, tức một xã hội thanh bình, yên vui, không bạo lực, xung đột, chiến tranh. "Vô vi" là nhãn tự có hàm ý uyên áo. Khái niệm vô vi đầu tiên được hiểu là một thuật ngữ trong sách Lão Tử, nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không bị trói buộc trong khuôn phép đạo đức nhân vi. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, bộ mới, khi đặt bài này ở vị trí mở đầu cho văn học cổ trung đại, thêm cho "vô vi" nghĩa trong "vô vi pháp" của sách Phật: từ bi, bác ái, vị tha. Thậm chí có thể nghĩ rằng, với tư cách một thiền sư, một cố vấn chính sự, Pháp Thuận đã thể hiện quan niệm tam giáo trong lời thơ. "Vô vi" ở đây gồm "vô vi" của Đạo giáo, "vô vi pháp" của Phật giáo, song chủ yếu là "vô vi nhi trị" của Nho gia. Vô vi ở bài thơ chủ yếu là thể hiện phương châm đức trị, đó là hàm ý uyên áo của nhà sư. Như vậy là, với [[Quốc tộ]], Pháp Thuận đã khẳng định giang sơn bền vững, với một nền thái bình muôn thuở, trong đó nhà vua lấy đức để trị dân. Trả lời nhà vua, bằng bốn câu thơ, với nội dung như thế, Pháp Thuận là thiền sư - thi sĩ đầu tiên thể hiện lý tưởng thái bình muôn thuở của cộng đồng [[Đại Cồ Việt]] thời đại [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]].
|