Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hà Nội”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 25:
Hà Nội đang tiến tới việc [[kỉ niệm 1000 năm Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội]] vào tháng 10 năm 2010.
 
==Lịch sử và tên gọi==
[[Hình:Hoan_kiem_hanoi_1999.jpg|trái|thumb| [[Hồ Hoàn Kiếm]] ở trung tâm Hà Nội năm [[1999]]]]
Hà Nội đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử. Trong thời kỳ cai trị của [[:Thể loại:người Trung Quốc|người Trung Quốc]] nó từng có tên là huyện '''Tống Bình''', xuất hiện trong sử sách từ những năm [[454]]-[[456]] thời [[Nam Bắc Triều (Trung Hoa)|Nam Bắc triều]] của [[Trung Quốc]]. Huyện Tống Bình được nâng cấp lên quận Tống Bình, gồm 3 huyện: [[huyện Nghĩa Hoài|Nghĩa Hoài]], [[huyện Tuy Ninh|Tuy Ninh]] ở bờ nam sông Hồng (đoạn [[Từ Liêm]], [[Hoài Đức]] ngày nay), còn [[huyện Xương Quốc|Xương Quốc]] ở bờ bắc ([[Đông Anh]], [[Gia Lâm]] ngày nay). Quận trị là vùng nội thành hiện nay.
 
Về sau nó được đổi tên gọi là '''Đại La''' (nguyên là tên của vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy vòng thành nhỏ hơn ở trong): sách ''[[Khâm định Việt sử thông giám Cương mục]]'' có viết:
 
:Thành này do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 ([[767]]) đời [[nhà Đường|Đường]]; năm Trinh Nguyên thứ 7 ([[791]]), Triệu Xương đắp thêm; năm Nguyên Hòa thứ 3 ([[808]]), Trương Chu lại sửa đắp lại; năm Trường Khánh thứ 4 ([[824]]), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên [[sông Tô Lịch]], đắp một cái thành nhỏ, gọi là '''La Thành'''; năm Hàm Thông thứ 7 ([[866]]), [[Cao Biền]] đắp ngoại thành bao quanh "kim thành", cũng gọi tên là La Thành.
 
'''[[Long Đỗ]]''' cũng là một tên gọi của Hà Nội, nhưng không phải tên gọi chính thức, tên gọi này xuất hiện từ thời [[Cao Biền]]. Truyền thuyết kể rằng, vào năm 866, khi Cao Biền mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.
 
Khi [[Việt Nam]] giành được độc lập, Hà Nội lúc đó trở thành thủ đô của [[Đại Việt]] từ [[thế kỷ thứ 11]], với tên gọi '''[[Thăng Long]]''' (昇龍, có nghĩa là rồng bay lên), sau khi [[Lý Công Uẩn]] ra [[chiếu dời đô]] năm [[1010]]. Thăng Long là thủ đô cho đến năm [[1397]], khi thủ đô được di chuyển về [[Thanh Hóa]], (tức '''Tây Đô'''). Thăng Long khi đó có tên gọi là '''[[Đông Đô]]'''.
 
Năm [[1408]], nước [[Đại Ngu]] của cha con họ [[nhà Hồ|Hồ]] bị quân đội của [[nhà Minh]] xâm chiếm và Đông Đô bị người Minh đổi tên thành '''Đông Quan'''.
 
Năm [[1428]], sau khi quân đội của [[Lê Lợi]] giải phóng đất nước thì Đông Quan được đổi tên thành '''Đông Kinh''' - tên gọi này người [[châu Âu]] phiên âm thành [[Tonkin]].
 
[[Hình:ANHHNDAUTK19.jpg|nhỏ|trái|200px|Bản đồ Hà Nội đầu thế kỷ 19]]
Thời [[nhà Tây Sơn|Tây Sơn]], nó có tên là '''Bắc Thành'''.
 
Năm [[1802]], khi nhà Nguyễn chuyển kinh đô về [[Huế]], nó lại được đổi tên thành Thăng Long, nhưng lần này chữ "Long" (隆) biểu hiện cho sự thịnh vượng, chứ không phải là [[rồng]], với lý do rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng". Sau đó vua [[Gia Long]] còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại rộng quá.
 
Năm [[1831]] vua [[Minh Mạng]] đổi tên nó thành '''Hà Nội''': tỉnh nằm trong (nội) hai con sông (hà) là [[sông Hồng]] và [[sông Đáy]]. Tỉnh Hà Nội lúc đó bao gồm thành Thăng Long, huyện Từ Liêm của trấn Tây Sơn và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam[http://www.vnn.vn/tulieu/2003/10/32112/].
 
Khi Việt Nam tiếp xúc với phương Tây, tên [[Hán-Việt]] của Hà Nội [[Đông Kinh]], được viết thành [[Tonkin]] và được người [[châu Âu]] dùng phổ biến. Năm [[1873]], [[:Thể loại:người Pháp|người Pháp]] bắt đầu tiến đánh Hà Nội và 10 năm sau thì chiếm toàn bộ. Từ năm [[1887]], Hà Nội trở thành thủ phủ của [[Đông Dương]] thuộc [[Pháp]].
 
[[Hình:HN1890.jpg|nhỏ|phải|200px|Bản đồ Hà Nội 1890]]
Năm [[1940]], thành phố bị phát xít [[Nhật]] xâm chiếm và đến năm [[1945]] Hà Nội được giải phóng và nơi đặt các cơ quan của Chính phủ nước [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]. Từ [[1946]] đến [[1954]], Hà Nội là chiến địa ác liệt giữa [[Việt Minh]] và quân đội Pháp. Sau khi được giải phóng vào ngày [[10 tháng 10]] năm [[1954]], Hà Nội trở thành thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 
Trong [[Chiến tranh Việt Nam]], các [[công trình giao thông]] của Hà Nội như [[cầu]] và [[đường tàu]] bị [[bom]] [[đạn]] phá hủy, tuy nhiên ngay lập tức được sửa chữa. Trong thời gian này Hà Nội được xưng tụng là "Thủ đô của phẩm giá con người". Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Việt Nam sau ngày Bắc Nam thống nhất [[2 tháng 7]] năm [[1976]].
 
Hà Nội còn có nhiều các tên gọi không chính thức khác, chủ yếu xuất hiện trong văn thơ và dân gian: '''Trường An''' hay '''Tràng An''' (lấy theo tên gọi của kinh đô của [[Trung Quốc]] thời kỳ [[nhà Hán]] và [[nhà Đường]]); '''Phượng Thành''' hay '''Phụng Thành''' (trong bài phú của [[Nguyễn Giản Thanh]]); '''Long Thành''', '''Long Biên''', '''Kẻ Chợ''' (trong dân gian); '''Thượng Kinh''', '''Kinh Kỳ''', '''Hà Thành''', v.v.
 
==Các đơn vị hành chính==