Khác biệt giữa bản sửa đổi của “A7V”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: [[Thể loại:Xe tăng Thế chiến thứ nhất → [[Thể loại:Xe tăng thời Thế chiến thứ nhất using AWB
Thể loại:Hoàn toàn không có nguồn tham khảo: đặt 8 chú thích ở các vị trí trong bài tương ứng bản tiếng Anh, gỡ bảng [thiếu nguồn], thêm sách cho Thư mục
Dòng 1:
{{thiếu nguồn gốc}}
{{Infobox Weapon
|name= A7V
Hàng 42 ⟶ 41:
|speed= 15 km/h
}}
'''A7V''' là một loại xe tăng của [[Đức]] được đưa vào năm 1918 và đã được sử dụng suốt [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. 100 chiếc đã được đặt hàng vào đầu năm 1918, 10 chiếc được hoàn thành để chiến đấu và tiếp tục được sử dụng như xe chuyên chở hàng.<ref>Zaloga (2006), tr 7-10.</ref> Số A7V được bọc thép sau này tăng lên 20 chiếc. Chúng đã được sử dụng từ tháng 3 đến tháng 10 cùng năm, và chỉ có A7V được sản xuất bởi Đức được sử dụng trong những chuyến hành quân.<ref>Tucker (2004), tr 24–25.</ref>
==Lịch sử==
===Sản xuất===
Trước sự xuất hiện của lớp tăng Anh đầu tiên ở mặt trận phía Tây, ''Allgemeines Kriegsdepartement, 7. Abteilung, Verkehrswesen'' (Cục tổng chiến tranh, chi nhánh 7, vận tải)<ref>Zaloga (2006), tr 7.</ref> đã được thành lập vào tháng 9 năm 1916.
 
Dự án thiết kế và lắp ráp chiếc xe tăng Đức đầu tiên đã được đặt dưới sự chỉ đạo của [[Joseph Vollmer]], một [[kĩ sư]] kiêm [[đại úy]] dự bị. Nó nặng khoảng 30 tấn, có khả năng vượt qua chiến hào rộng tới 1.5 mét, vũ khí chính bao gồm pháo ở mặt trước và hai bên cùng vài [[súng máy]], đạt tốc độ tối đa ít nhất là 12&nbsp;km/h, bánh xích dựa trên máy kéo Holt, sao chép từ mẫu được cho mượn bởi [[quân đội Australia]]. Sau khi kế hoạch ban đầu được chia sẻ với quân đội vào tháng 12 năm 1916, bản thiết kế được mở rộng với khung phổ thông được sử dụng dựa trên cả xe tăng và xe kéo hàng ''[[Überlandwagen]]''.
 
Nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành bởi [[Daimler-Motoren-Gesellschaft]] ở Berlin-Marinfelde và được thử nghiệm vào ngày 30 tháng 4 năm 1917. Một mô hình bằng gỗ của phiên bản cuối cùng được hoàn thành vào tháng 5 năm 1917 và được thao diễn ở Mainz với 10 tấn [[đá balat]] mô phỏng giáp. Trong phiên bản cuối cùng, người ta đã bỏ đi [[súng đại bác]] ở mặt sau và tăng số lượng [[súng máy]] lên 6 khẩu. Mẫu A7V trước được sản xuất vào tháng 9 năm 1917, sau đó là mẫu chính thức được sản xuất vào tháng 10 năm 1917. Những chiếc A7V này được xếp vào Đơn vị xe tăng tiến công 1 và 2, thành lập ngày 20 tháng 9 năm 1917, mỗi chiếc bao gồm tổ lái 5 người, 109 [[hạ sĩ quan]] và binh lính.<ref name="Hundleby, Strasheim">Hundleby, Strasheim (1990), tr 23, 34, 61, 79.</ref>
 
===Đặt tên===
Hàng 55 ⟶ 54:
 
==Thiết kế==
A7V dài 7.34 mét, rộng 3 mét và có chiều cao tối đa là 3.3 mét. Được trang bị lớp [[thép]] dày 20&nbsp;mm ở hai bên, dày 30&nbsp;mm ở mặt trước và 10&nbsp;mm ở nóc,<ref name="Hundleby, Strasheim"/> tuy nhiên, thép không được gia công thành thép tấm, điều này làm giảm đi hiệu quả của nó. Nó đủ dày để chống đỡ đạn súng máy và súng trường nhưng sẽ bị xuyên nếu gặp cỡ đạn lớn hơn. Hiệu quả bảo vệ của lớp giáp này có thể so sánh với lớp giáp của những chiếc xe tăng cùng thời, hiệu quả hơn nhờ sử dụng [[thép tấm]].
 
Kíp chiến đấu thường bao gồm 17 lính và 1 sĩ quan: 1 [[chỉ huy]] (thường là [[trung úy]]), 1 [[lái xe]], 1 [[thợ máy]], 1 [[liên lạc viên]], 12 [[bộ binh]] (6 xạ thủ, 6 người nạp đạn) và 2 [[pháo thủ]] (người bắn và nạp đạn chính).
Hàng 76 ⟶ 75:
===Trận Villers-Bretonneux===
Trận đấu tăng đầu tiên trong lịch sử diễn ra vào ngày 24 tháng 4 năm 1918 khi 3 chiếc A7V (bao gồm số khung 561, còn gọi là "Nixe") đang tham gia vào một cuộc tấn công cùng bộ binh thì bất ngờ đụng độ 3 chiếc [[Mark IV]] (2 chiếc cái trang bị súng máy và 1 chiếc đực trang
bị 2 khẩu QF-6 pounder) gần [[Villers-Bretonneux]]. Suốt trận đấu, cả hai bên đều bị thiệt hại. Theo như chỉ huy xe tăng, thiếu úy Frank Michell, những chiếc Mark IV cái bị hạ gục sau khi bị bắn bởi loạt đạn xuyên giáp và không thể gây ra bất cứ thiệt hại nào cho những chiếc A7V do chúng chỉ được trang bị súng máy. Mitchell sau đó tấn công xe tăng cầm đầu quân Đức, được chỉ huy bởi thiếu úy Wilhelm Biltz,<ref>Forty (1995), tr 39–47.</ref> bằng khẩu 6-pounder gắn trên xe ông đã hạ gục chiếc A7V này. Ông bắn 3 phát và giết chết 5 lính Đức khi họ cố gắng giải cứu chiếc xe. Sau đó ông tiếp tục tấn công bộ binh bằng những loạt đại bác. Hai chiếc A7V còn lại rút lui. Khi xe tăng của Mitchell đang rút lui, 7 chiếc xe tăng hạng nhẹ cũng tham gia tấn công. 4 trong số chúng bị hạ trong trận chiến và không rõ là chúng có tấn công những chiếc A7V đang rút lui của Đức hay không. Xe tăng của Mitchell bị đứt xích gần cuối trận chiến và bị bỏ lại. Những chiếc A7V bị hư hại được sửa chữa bởi quân Đức sau này.
bằng khẩu 6-pounder gắn trên xe ông đã hạ gục chiếc A7V này. Ông bắn 3 phát và giết chết 5 lính Đức khi họ cố gắng giải cứu chiếc xe. Sau đó ông tiếp tục tấn công bộ binh bằng những loạt đại bác. Hai chiếc A7V còn lại rút lui. Khi xe tăng của Mitchell đang rút lui, 7 chiếc xe tăng hạng nhẹ cũng tham gia tấn công. 4 trong số chúng bị hạ trong trận chiến và không rõ là chúng có tấn công những chiếc A7V đang rút lui của Đức hay không. Xe tăng của Mitchell bị đứt xích gần cuối trận chiến và bị bỏ lại. Những chiếc A7V bị hư hại được sửa chữa bởi quân Đức sau này.
[[Tập tin:Tank-Mephisto-Queensland-Museum.jpg|thumb|right|Chiếc A7V còn lại duy nhất tên Mephisto được trưng bày ở bảo tàng [[Queensland]], [[Brisbane]], [[Australia]]]]
3 biệt đội gồm 5 xe tăng mỗi đội ở Viller-Bretonneux dẫn đầu bốn sư đoàn quân Đức được ủy thác trên một chiến tuyến dài 4 dặm. Một chiếc không thể khởi động, tuy nhiên 40 chiếc còn lại đã đạt được một số thành công nhất định, và theo ghi chép của quân Anh, 4 hàng của họ đã bị phá vỡ bởi những chiếc xe tăng. 2 chiếc A7V bị sụt hố và một số khác bị trục trặc máy móc và vũ khí. Sau một cuộc đột kích, ba chiếc rơi vào tay quân Đồng minh. Một chiếc không thể sử dụng và bị loại, một chiếc được sử dụng để thử đạn bởi quân Pháp sau này, và chiếc thứ ba cuối cùng được phục chế bởi lính Australia.
Hàng 90 ⟶ 88:
A7V được xem là thành công, tuy nhiên kết thúc chiến tranh, không một loại xe tăng khác hoặc máy bay nào có thể hạ gục nó.
 
Số lượng lắp ráp chỉ 20 chiếc khiến A7V không mang lại nhiều đóng góp và hầu hết xe tăng của Đức (khoảng 50 chiếc) được sử dụng trong chiến đấu là những chiếc [[Mark IV]] thu được từ quân Anh (''Beutepanzer''').<ref>Koch (1994)</ref> Ngược lại, người Pháp đã đưa vào sử dụng hơn 3,600 xe tăng hạng nhẹ [[Renault FT]], lượng xe tăng lớn nhất trong thế chiến thứ nhất và người Anh cũng đưa vào hơn 2,500 xe tăng hạng nặng các loại từ Mark I đến Mark V.
 
==Danh sách khung A7V==
Hàng 207 ⟶ 205:
==Các biến thể==
[[Tập tin:A7V-U.jpg|thumb|right|Một chiếc A7V-U]]
A7V-U: (''umlaufende Ketten''="chuỗi bánh xích quay tròn"). Một thử nghiệm tái sản xuất khả năng chạy ở tất cả các địa hình của xe tăng Anh, A7V-U vẫn dựa trên khung Holt nhưng có thân hình thoi và bánh xích toàn thân. Buồng lái giống nhưng to hơn, trên một chiếc A7V và đặt trên đỉnh của phần trước thân. 2 pháo 57&nbsp;mm được trang bị hai bên hông giống kiểu Anh, mẫu đầu tiên được lắp ráp vào tháng 6 năm 1918, và bản thử đã cho thấy nó bị nặng đầu và có tâm quá cao, ngoài ra, khối lượng lên đến 40 tấn còn làm cho nó trở nên mất linh hoạt. Sau khi giải quyết được các vấn đề trên, 20 chiếc đã được đặt hàng vào tháng 9 năm 1918, cùng tháng đó tất cả các thiết kế được dừng lại,<ref>Hundleby, Strasheim (1990), tr 23, 34, 61, 79.</ref> tập trung cải thiện thiết kế, tuy nhiên chiến tranh đã kết thúc nên không có chiếc nào được sản xuất.
 
30 loại khung đã được sang tên để hoàn thành như ''Überlandwagen'' hỗ trợ vận chuyển, nhưng hầu hết không được hoàn thành trước khi kết thúc chiến tranh.
Hàng 213 ⟶ 211:
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
 
*{{chú thích sách | last = Foley | first = John | authorlink = | title = A7V Sturmpanzerwagen | publisher = Profile Publications | year = 1967 | location = | pages = | url = | doi = | id = | isbn = }}
==Thư mục==
*{{chú thích sách | last = Foss | first = Christopher F. | authorlink = | title = The Encyclopedia of Tanks and Armoured Fighting Vehicles | publisher = Spellmount | year = 2003 | location = | pages = 232 | url = | doi = | id = | isbn = 1-86227-188-7}}
* {{chúcite thíchbook sách|ref=harv | last = ZalogaForty | first = SteveGeorge | authorlink = | title =Tank GermanAction Panzersfrom 1914–18the |Great publisherWar =to [[Ospreythe Publishing]]Gulf | year = 20061995 | location publisher=Alan |Sutton pagesPublishing = 232Ltd | url location=[[Stroud]], | doi =Gloucestershire | id = | isbn = 1978-841760-9457509-20479-7 |pages=39–47}}
* {{cite book |ref=harv |last1=Hundleby |first1=Maxwell |last2=Strasheim |first2=Rainer |title=The German A7V Tank and the Captured British Mark IV Tanks of World War I |publisher=Haynes Foulis |year=1990 |isbn=978-0-85429-788-7}}
* {{cite book |ref=harv |last=Koch |first=Fred |title=Beutepanzer im Ersten Weltkrieg |trans-title=Captured tanks in the First World War |year=1994 |publisher=Podzun-Pallas-Verlag GmbH |location=[[Wölfersheim|Wölfersheim-Berstadt]] |isbn=978-3-7909-0520-5 |language=German}}
* {{cite book |ref=harv |last=Tucker |first=Spencer |authorlink=Spencer C. Tucker |title=Tanks: An Illustrated History of Their Impact |publisher=ABC-CLIO |year=2004 |location=Santa Barbara, California |isbn=978-1-57607-995-9}}
* {{cite book |ref=harv |last=Zaloga |first=Steve |authorlink=Steven Zaloga |title=German Panzers 1914–18 |publisher=[[Osprey Publishing]] |year=2006 |location=Oxford, UK |isbn=978-1-84176-945-5}}
 
[[Thể loại:Xe tăng thời Thế chiến thứ nhất]]