Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mạc Kính Vũ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 93:
 
==Quy Hoá tướng quân==
Theo ghi chép trong [[Thanh thực lục]] và [[Thanh sử cảo]] thì năm 1661, nhận thấy nhà [[Nam Minh]] đã sắp cáo chung, người dứng đầu chính quyền họ Mạc ở Cao Bằng là Mạc Kính Diệu sai sứ sang [[nhà Thanh]] cầu phong. Thanh đế [[Khang Hy]] phong cho Mạc Kính Diệu chức Quy Hóa tướng quân, cuối năm đó lại phong cho con của Kính Diệu là Mạc Nguyên Thanh làm [[An Nam đô thống sứ]]. Các nhà nghiên cứu lịch sử qua đối chiếu các thư tịch của Việt Nam và Trung Quốc đã thống nhất quan điểm Mạc Kính Vũ chính là Mạc Kính Diệu, vì Mạc Kính Khoan đã mất từ năm 1638 cho nên không thể là Mạc Kính Diệu, trong lịch sử không hiếm những vị [[An Nam quốc vương|quốc vương An Nam]] ở trong nước dùng tên khác mà khi quan hệ ngoại giao thì lại lấy tên khác. Sử sách Việt Nam ghi nhận Mạc Kính Vũ cầm quyền đến năm 1677 mới bị đánh bật khỏi Cao Bằng chạy sang Long Châu - Trung Quốc mà không đề cập tới Mạc Nguyên Thanh, trong khi đó sử Trung Quốc lại chép từ năm 1661 Mạc Nguyên Thanh đã chấp chính ở Cao Bằng cho đến năm 1681 với niên hiệu Vĩnh Xương. Do đó có nhiều khả năng về đối nội danh nghĩa vẫn là Mạc Kính Vũ làm vua, còn đối ngoại đều do Mạc Nguyên Thanh chủ trì. Các tài liệu Việt Nam đều cho rằng Mạc Kính Vũ không có miếu hiệu và thụy hiệu, nhưng nhà sử học Trung Quốc [[Ngưu Quân Khải]] trong cuốn sách ''Việt Nam Mạc thị gia tộc dữ Trung Quốc quan hệ nghiên cứu'' đã chỉ rõ [[miếu hiệu]] của ông là [[Minh Tông]], còn [[thụy hiệu]] là Trang Thiên Huệ Địa Cảnh Văn Di Vũ Khai Hoàng Đế.
 
==Xem thêm==
*[[Nhà Mạc]]