Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thuốc nổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
che tao
Dòng 109:
== Chế tạo ==
[[thuốc súng|Thuốc nổ đen]] có thể được chế tạo thủ công bằng cách trộn theo tỷ lệ [[trọng lượng biểu kiến|trọng lượng]] 75%[[kali|K]][[nitơ|N]][[ôxy|O]]<sub>3</sub>, 15%[[cacbon|C]], 10%[[lưu huỳnh|S]]. Cacbon có thể được thu bằng cách đốt [[gỗ]] (như thân cây [[chi Xoan|xoan]]) trong tình trạng hiếm khí rồi lọc qua lưới để được bột mịn. Lưu huỳnh và KNO<sub>3</sub> cũng cần đem phơi khô rồi lọc qua lưới để được bột mịn.
 
Biogas hay khí methane (CH4), Thử trộn với không khí hay oxi để kích nổ.
 
<nowiki>-------------------------</nowiki>
 
Nhiệt nhôm, ngọn lửa bùng lên khi đốt cháy bột nhôm và gỉ sắt, có nhiệt độ lên tới 2.200 độ C.
 
Nhôm dạng bột cháy to.
 
<nowiki>--------------------------</nowiki>
 
Dạng bột của natri là chất nổ mạnh trong nước và là chất độc có khả năng liên kết và rời liên kết với nhiều nguyên tố khác. Làm việc hay tiếp xúc với natri phải cực kỳ cẩn thận trong mọi lúc, mọi nơi. Natri phải được bảo quản trong khí trơ hay dầu mỏ.
 
<nowiki>----------------------</nowiki>
 
Hút hết không khí ra bịt nòng lại, sơ tốc đầu nòng sẽ nhanh hơn ít nhất gấp đôi thông thường.
 
<nowiki>----------------------------------------------</nowiki>
 
Brom có thể phát nổ khi kết hợp với kali, phốt pho, thiếc, và với nhiều hóa chất khác.
 
<nowiki>-----------------------------------------------------------------</nowiki>
 
Diêm
 
Phốt pho và lưu huỳnh làm diêm.
 
Giấy nhám diêm là một lớp bột thủy tinh lên trên.
 
Bề mặt vỏ hộp được bôi một lớp bột ma sát gồm có phốt pho đỏ và keo dán. Nhiệt phát ra do ma sát biến phốt pho đỏ thành phot pho trắng. Phốt Pho trắng là chất không bền, dễ bốc cháy ở nhiệt độ phòng khi tiếp xúc với không khí
 
Phốt pho trắng đem đun trong chân không đến 300 độ C, trở thành phốt pho đỏ, không cháy do ma sát, nhưng trộn với potassium chlorate thì thành chất dễ cháy nổ. Người sản xuất tách riêng hai thành phần này, để một nằm trên đầu diêm, một nằm trên vỏ hộp đi kèm. Khi dùng, bạn phải “quẹt” que vào vỏ thì mới có lửa, an toàn hơn.
 
Phốt pho trắng và vàng rất độc hại nên năm 1906 đã bị cấm sản xuất trên toàn thế giới.
 
phốt pho đỏ không độc sản xuất ra những que diêm an toàn hơn.
 
<nowiki>-------------------------------------------------------------------------------</nowiki>
 
Phân dơi lâu ngày tích tụ lại thành lớp dày, lấy về chế biến tách ra được một thứ muối trắng như đường, diêm tiêu là các muối kali nitrat (KNO3), natri nitrat (NaNO3).
 
Thành phần chính trên đầu que diêm là KClO3, trên vỏ bao là photpho đỏ. 2 chất này tương tác với nhau sinh ra nhiệt làm cháy que gỗ.
 
<nowiki>---------------------------------------</nowiki>
 
Trên thế giới có hai loại diêm
 
1) Diêm ma sát : Diêm này chỉ cần dùng que diêm< ko cần hộp quẹt đi kèm>, quẹt vào bất kỳ đâu có ma sát là có thể cháy. Đầu que diêm này chứa : P< phot pho> trắng, lưu huỳnh, một số oxit kim loại như chì oxit, mangan oxit... < để tạo độ kết dính, giữ chặt và ko làm P trắng bốc cháy ở t* thường> , Hạn chế lớn của loại diêm này là phốt pho trắng rất độc, ngoài ra cứ hễ va chạm là que diêm phát hỏa.
 
2) Diêm quẹt < hiện này dùng> : Chia làm 2 phần : que diêm và phần quẹt diêm < ở hộp diêm>
 
Phần quẹt : P đỏ < dạng # của phot pho, khó cháy nổ hơn P trắng, dễ biến đổi thành P trắng ở đk t* cao> , chất thô để tạo ma sát < cũng có thể dùng oxit chì, or bột thủy tinh>...>
 
Phần đầu que diêm : Là hỗn hợp Kali clorat <KClO3> và một số chất dễ cháy như antimony trisulphide + chất keo dính.
 
Những que diêm được làm từ những que gỗ nhỏ bọc photpho ở đầu. Photpho là chất rất dễ cháy ngay cả ở nhiệt độ rất thấp, nhúng que tẩm lưu huỳnh vào dung dịch lưu huỳnh và photpho và thế là những que diêm đã ra đời.
 
<nowiki>----------------------------------------------------------------------------------</nowiki>
 
Bom nước tiểu
 
vũ khí độc đáo là hỗn hợp gồm axit nitric và một số hợp chất khác. Những chất đó phát nổ rất mạnh khi chúng hòa lẫn vào nhau. Nguyên liệu chính của bom là một thứ mà người sử dụng có thể tạo ra trong mọi hoàn cảnh: nước tiểu. Sau khi "sản xuất" nước tiểu, người sử dụng đun sôi nó rồi trộn với các hợp chất khác. Có thể nói, do quy trình chế tạo quá đơn giản, bom nước tiểu trở thành một vũ khí lợi.
 
<nowiki>---------------------------------------------</nowiki>
 
làm được chất nổ với khí hydro và oxy hay chất nổ với xăng, dầu, cồn như súng hơi cồn, tẩm vào bông.
 
Điện phân nước ra oxy và hydro làm chất nổ.
 
<nowiki>-----------------------</nowiki>
 
Dùng hỗn hợp KNO3 và Đường với tỉ lệ khối lượng là 40 và 60. Đốt hỗn hợp bột này sẽ sinh ra thể tích khí N2 khá lớn, nếu có khả năng nén lại thì sẽ thành thuốc nổ. Hỗn hợp bột này mình đã dùng là thuốc phóng tên lửa, khá hiệu quả.
 
<nowiki>------------------------------------------------------------------------</nowiki>
 
Thuốc nổ dẻo C-4 là gì?
 
Thuốc nổ dẻo C-4 có thành phần cấu tạo chủ yếu là Hexogen, hay còn gọi là RDX, có cấu tạo hóa học là C3H6N6O6, RDX chiếm đến 91% thành phần của C4. Ngoài ra trong thành phần của C-4 còn có polyisobutilen, chất nhờn (2-ethylhexyl) để làm dẻo hóa khối thuốc nổ C-4 và một lượng nhỏ xăng crep (xăng trộn với caosu chưa lưu hóa). Để tạo ra C-4, người ta đem trộn Hexogen với nước để thành một thứ hợp chất đặc sệt, sau đó họ cho chất kết dính polyisobutilen. Hợp chất này sau đó được đem vào máy trộn cùng với chất nhờn và xăng crep. Cuối cùng, người ta đem chưng cất sản phẩm để tách nước ra. Sản phẩm cuối cùng thu được là những khối C-4 khá ổn định, gần giống như sáp nến.
 
C-4 chỉ là một trong nhiều loại thuốc nổ dẻo, gọi chung là PBX. Các loại thuốc nổ dẻo được tạo ra nhằm dễ dàng thay đổi hướng của lực công kích do có thể nhào nặn, tạo hình khối thuốc nổ theo bất cứ hình dáng nào và nhất là để bảo vệ an toàn cho người sử dụng. Các phụ gia như chất nhờn làm dẻo di(2-ethylhexyl) và xăng crep khiến cho khối thuốc  nổ C-4 trở nên kém nhạy hơn với các lực va đập cũng như nhiệt độ.
 
Các khối thuốc nổ dẻo C4 có thể được đem đốt mà không gây hậu quả gì, chúng chỉ cháy từ từ như khi ta đốt gỗ, đốt C-4 để tạo ra lửa không khói. Ngay cả khi dùng súng bắn thẳng vào C-4, nó cũng không hề phát nổ, chỉ với các kíp nổ chuyên dụng, bạn mới có thể kích hoạt khối chất nổ này.
 
Kíp nổ thực chất là thiết bị để tạo ra các vụ nổ rất nhỏ, đối với thuốc nổ dẻo như C-4, người ta thường sử dụng kíp nổ điện, những cú shock mạnh bằng điện sẽ kích hoạt khối chất nổ.
 
quấn dây điện trong thanh sắt làm kíp nổ như làm nam châm điện.
 
Sức mạnh
 
Khi phản ứng nổ xảy ra, C-4 giải phóng rất nhiều khí, đặc biệt là Ni-tơ và Cacbon Oxit, các chất khí này nở rộng ra với vận tốc khoảng 8km/s, tạo ra một lực cực lớn trong khoảng bao quanh nó. Với vận tốc như thế, việc chạy thoát khỏi một vụ nổ C-4 như trong phim ảnh là điều không thể thực hiện được. Một vụ nổ C-4 được chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu, các chất khí của vụ nổ bắn mạnh ra xung quanh tạo nên một vùng có áp suất thấp, sau đó, vùng áp suất thấp này lại bị các chất khí lao đến lấp đầy lại để cân bằng áp suất. Tuy nhiên, những giai đoạn của vụ nổ không thể quan sát được bằng mắt thường, chỉ sau 1 giây, những thứ trong phạm vi ảnh hưởng của vụ nổ sẽ bị phá hủy.
 
Một lượng nhỏ thuốc nổ C-4 cũng có thể tạo nên sức công phá lớn. Những khối thuốc nổ C-4 chỉ khoảng 500g cũng có thể phá hủy cả một chiếc xe tải. Những chuyên gia về thuốc nổ có thể tính toán và sử dụng thuốc nổ C-4 một cách hợp lý, ví dụ như để phá một dầm sắt vuông dày 20cm, họ có thể dùng khoảng 3,6 đến 4,5 kg thuốc nổ C-4.
 
<nowiki>----------------------------</nowiki>
 
Làm chất nổ với Pháo Bông nén chặt với ống giấy nó sẽ nổ mạnh.
 
<nowiki>---------------------------------------------------------------</nowiki>
 
Dây cháy chậm làm được bằng ống nhựa và cho thuốc nổ yếu vào, vẫn cháy được dưới nước.
 
<nowiki>-----------------------------------------------------</nowiki>
 
Đường C6H12O6, amoniac NH3, oxy lỏng và pin kích nổ có thể mạnh hơn 5 lần cây thuốc nổ.
 
<nowiki>--------------------------------------------------------------------</nowiki>
 
Các loại thuốc nổ đơn giản,dễ tìm,dễ pha chế,an toàn,nguyên liệu dễ kiếm
 
1).thuốc súng không khói:
 
Các hóa chất cần thiết: Xenlulozo:[C6H10O5]n(bông gòn),Axit sunphuric:H2SO4 đđ,
 
Axit nitoric:HNO3 đđ.
 
Cho ba chất trên trộn lại khuấy đều là ok.nhớ nhiệt độ phòng ko quá 10C khoảng 30 phút lọc lấy kết tủa phơi khô là dùng được (cẩn thận nhé!)
 
Cách khác:
 
thuốc súng không khói (xenlulo trinitrat)
 
Cách tổng hợp:
 
H2SO4 đặc 98%+HNO3 đặc 70% tỉ lệ 4:3
 
Hỗn hợp được làm lạnh đến 0 độ bằng băng đá.
 
Bông (cellulose) được ngâm trong hỗn hợp trong vòng 45 phút sau đó vớt ra rửa sạch phơi khô.
 
Nitrocellulose rất dễ bắt cháy, cần hết sức cẩn thận khi thao tác.
 
2).Thuốc nổ đen thường KCLO3 + C + S
 
Trộn với tỷ lệ khối lượng 75%(KCLO3):15%(Than – C):10%(Lưu huỳnh – S).
 
Tỷ lệ muỗng cafe 6 muống KCLO3, 1.2 muống lưu huỳnh, 2 muỗng than.
 
Tất cả nghiền mịn riêng rồi trộn đều. Sau khi trộn rải lên mặt phẳng kiếm chai thủy tinh lăn nhẹ trộn đều, mục đích những hạt KCLO3 bị vón cục sẽ được trộn đều hơn.
 
+ Đặc tính: Rất nhạy, tốc độ cháy rất nhanh, Năng lượng lớn.
 
+ Ứng dụng: Làm pháo nổ, đầu đạn nổ cho rocket..v..v..
 
3). Thuốc nổ đen KNO3 + KCLO3 + C + S
 
Tỷ lệ khối lượng tương ứng là 50%:25%:15%:10%.
 
Kém nhạy hơn loại trên 1 chút tuy nhiên dùng vẫn tốt.
 
4). Thuốc nổ đen KNO3 + C + S
 
Trộn với tỷ lệ khối lượng 75%(KNO3):15%(Than – C):10%(Lưu huỳnh – S).
 
Tỷ lệ muỗng cafe 6 muống KNO3, 1.2 muống lưu huỳnh, 2 muỗng than.
 
Kém nhạy hơn cả 2 loại trên. Tốc độ có được cải thiện chút ít sau khi trộn 1 ngày (càng để lâu tốc độ cháy càng tăng). Tôi thấy loại này được nói nhiều nhất trên Internet tuy nhiên lại thấy nó yếu. Làm nổ thì không đạt được tối ưu cho lắm. Dùng cho thuốc phóng của tên lửa là phù hợp.
 
Chú ý : có thể thêm muối thủy ngân để tăng sức công phá,bột nhôm để tăng năng lượng cháy.
 
5).thuốc nổ TNT (trinitrotoluen): C6H2(NO2)3CH3
 
C6H5CH3 + HNO3 đđ + H2SO4 đđ = C6H2(NO2)3CH3 + .......+.....
 
Cái này phức tạp lắm đây, chú ý vào nhé :
 
Bước 1: Cần 2 cái ca thủy tinh lớn.Ca 1 để dung dịch có thành phần là 76% Acid sulfuric,23% Axit nitric và 1% nước.Còn ca thứ 2 thì là 57% Axit nitric và 43% sulfuric acid. ( tỉ lệ % nên đc đo bằng cân nặng thay vì dung tích )
 
Bước 2: 10 g của dd đầu tiên đc cho vào một cái ca thủy tinh rỗng khác và cho vào tủ đá.
 
Bước 3 : cho thêm 10g toluene vào và khuấy vài phút.
 
Bước 4: Đem cái ca ra khỏi ngăn đá và từ từ đun nó nóng lên cho tới 50 độ C
 
Cần phải khuấy đều liên tục khi đang đun.
 
Bước 5: Thêm 50g dd từ ca 1 và giữ nhiệt độ như trên trong vòng 10p và một chất lỏng giống như dầu sẽ bắt đầu hình thành trên axit.
 
Bước 6: Sau 10-12 phút,cho dd trên vào tủ đá để nó giảm nhiệt độ xuống 45 độ C.Khi tới nhiệt độ này,chất lỏng hình thành như trên sẽ chìm xuống đáy ca.Bây giờ thì dùng kim tiêm để hút hết dung dịch axit còn lại.
 
Bước 7: thêm 50g dd ở ca 1 vào cái chất lỏng giống dầu đấy,đồng thời vừa TỪ TỪ tăng nhiệt độ lên 83 độ C .Sau khi đạt nhiệt độ này thì giữ nguyên trong vòng nửa giờ.
 
Bước 8: giảm nhiệt độ xuống 60 độ C và giữ nhiệt độ này trong vòng nửa giờ nữa.Chất lỏng giống dầu sẽ lại tiếp tục lắng xuống dưới.
 
Bước 9:Thêm 30g Acid sulfuric khi vừa từ từ tăng nhiệt độ lên 80 độ C.
 
Tất cả việc tăng nhiệt độ đều phải từ từ và cẩn thận.
 
Bước 10: Sau khi đã đạt nhiệt độ như trên,thêm 30g của dd axit và tăng nhiệt độ từ 80C>104C và giữ nó như thế trong 3 giờ nữa.
 
Bước 11:Sau đó giảm nhiệt độ xuống còn 100 độ C giữ như thế trong nửa giờ nữa
 
Bước 12 : Sau nửa giờ trên,Lớp dầu sẽ đc lấy ra khỏi ca và rửa với nước sôi.
 
Bước 13 :Sau khi rửa với nước sôi đồng thời đc khuấy đều,TNT sẽ bắt đầu đông đặc.
 
Bước 14:Khi nó bắt đầu đông đặc lại,cho thêm nước lạnh vào và TNT sẽ hình thành dạng viên.Sau bước này rồi thì bạn đã có TNT loại tốt rồi đấy.
 
Chú ý : Nhiệt độ trong này phải hoàn toàn chính xác 100%.Không được ước lượng hoặc xấp xỉ.Mua cái nhiệt kế nhiệt kế bách phân ý.
 
6). Điều chế TATP: (cái này cực kỳ dễ điều chế)
 
Trộn đều 50 ml axeton vào 30 ml dd H2O2 30%, đặt cốc thí nghiệm vào nước đá, giữ nhiệt độ khoảng 5 độ C.Sau đó nhỏ từng giọt 3ml dd H2SO4 75% một cách từ từ, phải đảm bảo nhiệt độ ko quá 10 độ C trong suốt quá trình không chỉ vì an toàn mà còn để đảm bảo chất lượng sản phẩm tránh sinh ra các tạp chất ko có mạch vòng. Bạn phải khuấy đều dd trong 5 phút, sau đó cứ giữ cốc thí nghiệm trong nước đá từ 1 đến 3 giờ, hoặc lâu hơn càng tốt, bạn sẽ thấy tinh thể trắng kết tủa, lọc lấy rồi rửa bằng nước lạnh sau đó phơi khô.TATP là chất bột dạng tinh thể màu trắng chú ý ko nên ngiền, trộn TATP khô vì nó rất dễ nổ.
 
Nếu bạn cần tinh khiết hơn, có thể dùng cồn hoà tan TATP, lọc sạch rồi cô cạn.
 
Nếu bạn ko có H2O2 30% có thể dùng nước oxi già(H2O2 3%). Trộn 150 ml nước oxi già vào 25 ml axeton(cái ni ngoài cửa hàng bán đầy), ngâm cốc thí ngiệm trong nước đá 10-20 phút, cho thêm 20ml dd HCl 30%, nhớ là phải thật từ từ tránh để nhiệt độ tăng, tốt nhất nên có nhiệt kế chuyên dụng.Sau đó cứ để trong nước đá khoảng 20 phút, đợi khoảng 12-24 giờ sau đó lọc lấy kết tủa,phơi khô.
 
Ghi chú: bình thường, hydro peoxit trong hiệu thuốc tây bán được gọi là oxy già, có nồng độ thấp (3%), bạn mua trong tiệm hóa chất thường bán là 30%, dung dịch đó được gọi là perhydrol. hydro peoxit đặc tinh khiết là một chất lỏng không màu, vị kim loại, sánh như nước đường, sôi ở 152,1 độ C và hóa rắn ở -0,89 độ C, có tính OXH rất mạnh, giấy hay gỗ tiếp xúc với Hidropeoxit 65% là bốc cháy ngay, cho nên bạn hãy cẩn thận đó nhé, nồng độ của Hydropeoxit trên 10% sẽ làm rộp da và rất đau đớn
 
nếu bạn muốn biết hydropeoxit bao nhiêu % thì bạn hãy nhìn xem khối lượng riêng (D) trên nhãn, nều nó ghí 1,1122 là H2O2 30%, nếu ghi là 1,1966 là 50%.
 
7).NI3 - nito triodua.
 
Đây là 1 hợp chất kém bền, nó dễ dàng bị phân hủy... điều chế thì cực kì dễ, ta làm thế này.
 
Chuẩn bị dung dịch amoniac(NH3), một ít tinh thể Iod (I2), phải là tinh thể nha, ko xài dung dịch
 
ta chỉ cần cho I2 vào dd NH3 vào khuấy đều, bạn sẽ thấy suất hiện kết tủa đen, khuấy cho đến khi thu được nhiều kết tủa nhất, sau đó để yên khoảng 15 phút, dùng 1 tờ giấy lọc  và lọc kết tủa ra, phơi khô.
 
2NI3 --> N2 + 3I2 ...... boom
 
lưu ý, loại này "siêu nhạy", nên chỉ di chuyển nó khi còn ẩm mà thôi, nó mà khô rồi thì rất khó mang đi chỗ khác. loại này chỉ cần chạm nhẹ là nổ... anh em làm thử cho vui nhé, rất dễ
 
8).UN:
 
là một loại chất nổ khá mạnh, tuy không mạnh bằng các loại như TNT nhưng nó có 1 ưu điểm là dễ điều chế với số lượng lớn nên được khủng bố ưa chuộng.
 
2 nguyên liệu chính là Ure (NH2)2CO(phân đạm)và HNO3 , Ure mua ở cửa hàng phân hóa học, rất rẻ. HNO3 nên dùng loại trên 50%
 
cách làm như sau:
 
hòa tan Ure vào nước cho đến khi bão hòa, sau đó nhỏ từ từ HNO3 vào, sẽ thấy kết tủa trắng, đó là UN, sau khi cho hết HNO3 vào, để yên trong vòng vài tiếng trong tủ lạnh để thu được nhiều kết tủa nhất, sau đó lọc ra, rửa bằng nước và đun cách thủy cho khô.
 
Lưu ý, loại này không bền, gặp nhiệt độ nóng ẩm sẽ bị phân huỷ, vì vậy, ta chỉ nên lọc và làm khô trước khi sử dụng. Để tăng độ nhạy và độ mạnh, ta trộn 4 phần UN với 1 phần bột nhôm loại mịn.
 
9) Thuốc cháy KCLO3 + Đường
 
là hỗn hợp gồm KClO3 (KALI CHLORATE) và Đường theo tỉ lệ 55% KClO3 và 45% Đường Nó rất nhạy và phản ứng cực nhanh. Nó được xếp vào loại Primary High Explosive. Nếu bạn có ý định làm bom từ nó thì quả bom đó sẽ rất không an toàn nếu như nó bị va chạm hoặc bị đốt nóng nhẹ. An toàn thì chỉ nên dùng nó để làm ngòi nổ kích nổ những loại chất nổ khá an toàn ở điều kiện bình thường như Secondary High Explosives chẳng hạn
 
Để nó nổ mạnh hơn thì cho thêm Cacbon vào cũng đc.
 
10).Chất nổ AFNO
 
ANFO là hỗn hợp gồm 94.3 % AMONI NITRAT (NH4NO3) và 5.7 % dầu nhiên liệu (dầu DieZel,xăng, dầu Parafin). Cái này không nhạy cho lắm,có khi phải dùng các loại chất nổ khác  để kích nổ,thậm chí các ngoài nổ bình thường như dây cháy chậm cũng khó để kích nổ.Cần phải qua 1 chất nổ trung gian.
 
11). Chất nổ RDX:
 
là 1 chất nổ cực mạnh thường được dùng để nhồi vào đầu đạn tên lửa hoặc dùng để kích nổ vũ khí hạt nhân, và là thành phần chủ yếu của chất nổ dẻo (A1, A2, B1, B2, C1, C2,C3, C4…….)
 
Điều chế được nó 1 cách dễ dàng bằng cách nitrat hóa hexamin. Ta cho HEXAMINE [(CH2)6N4] tác dụng với AXIT NITRIC đậm đặc (HNO3)
 
(CH2)6N4 + 4HNO3 —> (CH2-N-NO2)3 + 3HCHO + NH4+ + NO3-
 
Sau phản ứng sẽ thấy tồn tại 1 chất lỏng màu đỏ nhạt để nguội khoảng 1 thời gian thì có kết tinh trắng xuất hiện , tách lấy kết tinh trắng làm bom còn chất lỏng đỏ thì thấm vào giấy, bông làm dây cháy
 
Điều chế RDX với lượng lớn phải thực hiện ở một nơi vắng người , xa khu dân cư vì khí ANDEHIT FORMIC sinh ra có thể gây ô nhiễm trên 1 vùng rộng lớn.
 
12). KCLO3 + petroleum
 
Trộn hỗn hợp KCLO3 cùng với sáp dưỡng ẩm vaseline 100% nguyên chất petroleum ( hay còn gọi là paraffin mềm ) với tỉ lệ 1:1 theo trọng lượng.Nó rất an toàn khi ướt nhưng có sức nổ mạnh và dễ bị kích nổ bởi rung động khi khô. Có thể trộn với tỉ lệ 2:1 hoặc 9:1 cũng đc.Nén càng chặt nó càng nổ to.
 
<nowiki>----------------------------</nowiki>
 
kali cacbonat từ tro bếp,  đá vôi CaCO3,
 
<nowiki>-----------------------------------------------------------------</nowiki>
 
Pháo hoa
 
Đỏ: muối strontium, muối lithium, lithium carbonate, Li 2 CO 3 = màu đỏ, strontium cacbonate, SrCO 3 = màu đỏ tươi.
 
Cam: các loại muối calcium (calcium chloride, CaCl 2 calcium sulfate, CaSO 4).
 
Vàng (kim loại) : sự đốt cháy của sắt (với carbonthan, muội đèn).
 
Màu vàng: hợp chất sodium (natri), sodium nitrate, NaNO3, cryolit, Na3 Alf 6.
 
Sáng trắng của Điện : kim loại nóng-trắng, như magnesium hay aluminum, barium oxide, BaO.
 
Xanh lá: hợp chất barium + chlorine sản xuất barium chloride BaCl +.
 
Xanh da trời: hợp chất đồng + clo, Cu3 Như 2O3Cu, (Cu3As2O3Cu(C2H3O2)2 = màu xanh, đồng chloride, CuCl = màu xanh ngọc.
 
Tím: hỗn hợp của strontium (đỏ) với đồng (màu xanh).
 
Bạc: nhôm đốt cháy, titanium, hoặc bột magiê hay như bông tuyết.
 
Các phân tử kim loại gồm hạt nhân và các điện tích quay xung quanh. Khi đốt nóng, các điện  tích này sẽ chuyển động nhanh hơn và can thiệp tới tần số ánh sáng.
 
<nowiki>-----------------------------------------------------------------</nowiki>
 
Slavia 631 airgun 170m/s.
 
Siêu thanh 1234.8 km/h, sơ tốc đầu nòng AK 47 715 m/s, M16 948 m/s.
 
Súng ngắn K54 420m/s, xoáy trong 4000 vòng/s, rãng xoắn 4, bước xoắn 11mm.
 
<nowiki>------------------------</nowiki>
 
Ammoniac NH3 có thể trộn với không khí thành 1 hỗn hợp gây nổ.
 
<nowiki>------------------------------------------</nowiki>
 
5 loại chất nổ phi hạt nhân mạnh nhất thế giới
 
Aziroazide azide là một trong những chất nổ nguy hiểm nhất, rất ít ổn định với 14 nguyên tử nitơ liên kết lỏng lẻo với nhau. Nó có thể phát nổ khi ai đó chạm vào hoặc cố gắng cầm lên. Các liên kết nitơ - nitơ nhanh chóng bị phá vỡ tạo thành phân tử khí nitơ. Phản ứng tỏa ra một lượng nhiệt lớn.
 
TATP thuộc về nhóm phân tử peroxit, chứa liên kết oxy - oxy yếu, không ổn định, và không có trong TNT. Điều này nghĩa là TATP ít ổn định và dễ tự phát nổ. Loại thuốc nổ TATP được mệnh danh là "Mẹ Quỷ", có thể được chế tạo từ các loại vật liệu, hóa chất mua từ hiệu thuốc. Sức công phá của TATP mạnh hơn TNT khoảng 80%. Chỉ cần một cú va chạm hoặc gõ mạnh vào là đủ để kích hoạt vụ nổ, không phải qua đốt nóng? TATP giống nổ khí ở quy mô lớn, hơn là nổ bom lửa. Khi một tinh thể chất nổ TATP bị va chạm đủ mạnh, mỗi phân tử rắn ngay lập tức vỡ vụn thành 4 phân tử khí. "Mặc dù khí ở nhiệt độ phòng, nhưng nó có độ đậm đặc tương đương chất rắn và có số phân tử nhiều hơn gấp 4 lần. Do đó, nó sở hữu áp suất gấp 200 lần không khí xung quanh. Áp suất cực lớn này ( 1- 1,5 tấn/2,5cm2) sau đó đẩy bật ra ngoài, tạo nên lực nổ ngang với chất nổ TNT. Trong một vụ nổ TATP, các phân tử khí truyền năng lượng dịch chuyển sang môi trường xung quanh và trong quá trình đó tạo ra sóng sốc phá hủy"
 
Trinitrotoluene, hay TNT C6H2(NO2)3CH3. Đây là loại chất rắn màu vàng lần đầu tiên được sản xuất làm thuốc nhuộm vào năm 1863, theo Science Alert. Không như nitroglycerin có thể phát nổ khi va chạm, TNT rất "lỳ đòn", có thể quăng quật thoải mái, thậm chí có thể nấu chảy và đổ vào dụng cụ chứa. Nó chỉ phát nổ khi có ngòi nổ mồi, tạo ra sức công phá rất lớn khi các nhóm nitro trong phân tử nhanh chóng biến thành khí nitơ. Tính chất gây nổ phát hiện năm 1891.
 
PETN một trong những chất nổ mạnh nhất là PETN, chứa nitroglycerin và nhiều nhóm nitro hơn TNT. PETN rất khó để phát nổ nên người ta thường kết hợp nó với TNT hoặc RDX. Hiện nay, loại chất nổ này thường có mặt trong kíp nổ của vũ khí hạt nhân.
 
RDX là một "chất nổ nitơ", tính chất gây nổ của RDX bắt nguồn từ sự có mặt của rất nhiều liên kết nitơ - nitơ, chứ không phải liên kết oxy như TATP. Các nguyên tử nitơ luôn muốn liên kết với nhau tạo thành khí nitơ với liên kết ba bền vững, nên RDX cực kỳ không ổn định.  RDX thường được trộn với các hóa chất khác để làm cho nó ít nhạy cảm hơn và không có khả năng phát nổ bất ngờ.
 
<nowiki>-------------------------------------------------------</nowiki>
 
Vì sao khi phóng tên lửa cần bơm hàng nghìn tấn nước?
 
Dùng hàng nghìn tấn nước trong quá trình phóng tên lửa sẽ bảo vệ mặt đất khỏi việc bị phá hủy, giúp làm giảm bớt sóng âm, tránh làm hỏng động cơ.
 
<nowiki>-----------------------------------------------------------</nowiki>
 
Một số tham số nhiên liệu tên lửa
 
 
DMHBX là H2NN(CH3)2 HAY CH3NHNHCH3
 
Hydrazin là hợp chất hóa học với công thức N2H4.
 
Amoniac là NH3.
 
Pentaboran WIKI NÓ RA LÀ Pentaborane(9) (B5H9) VÀ Pentaborane(11) (B5H11)
 
<nowiki>-----------------------------------------------------------</nowiki>
 
Tổng hợp các phương pháp điều chế TNT
 
TNT là một loại chất nổ mạnh được dùng phổ biến trong quân sự, với tốc độ
 
truyền nổ 6900m/s.
 
TNT là chất rắn màu vàng sáng, để lâu ngoài không khí lớp bên ngoài chuyển màu
 
vàng nâu, nóng chảy ở 80 độ C, không tan trong nước, tan trong acetone, benzen.
 
Nó còn là một trong những loại chất nổ được sản xuất nhiều nhất trên thế giới,
 
trong chiến tranh TG thứ II, người ta sản xuất hơn 180 000 tấn / năm. TNT được
 
dùng phổ biến trong các loại bom, mìn, lựu đạn, đầu đạn pháo...
 
TNT C6H2(NO2)3CH3
 
TNT độc hại với con người và khi tiếp xúc với da có thể làm da bị kích thích làm cho da chuyển sang màu vàng.
 
Những người làm việc, tiếp xúc nhiều với TNT sẽ dễ bị bệnh thiếu máu và dễ bị bệnh về phổi. Những ảnh hưởng về phổi và máu và những ảnh hưởng khác sẽ phát triển dần và tác động vào hệ thống miễn dịch, nó cũng được phát hiện thấy ở những động vật đã ăn hay hít thở phải TNT. Có các bằng chứng về sự ảnh hưởng bất lợi của TNT đối với khả năng sinh sản của đàn ông, đồng thời TNT cũng được ghi vào danh sách các chất có khả năng gây ung thư cho con người. Việc ảnh hưởng của TNT làm nước tiểu có màu đen.
 
Một số khu đất thử nghiệm của quân đội đã bị nhiễm TNT. Nước thải từ vũ khí, bao gồm nước mặt và nước ngầm, có thể chuyển thành màu tím bởi sự hiện diện của TNT. Những  sự ô nhiễm như vậy, gọi là "nước tím", có thể rất khó khăn và tốn kém
 
PHƯƠNG PHÁP 1
 
Hóa chất cần chuẩn bị:
 
1. 150 gram HNO3 99%
 
2. 572 gram oleum 30%
 
3. 34 grams toluene C6H5CH3
 
4. 108 gram of H2SO4 70%
 
5. 1500 ml dung dịch Na2CO3 5%
 
TNT có thể điều chế từ oleum (fuming sulfuric acid) và axit nitric 99%. Sau khi
 
phản ứng diễn ra, TNT được lọc ra, rửa bằng nước và làm khô. TNT sau khi phơi
 
khô được làm tinh khiết hơn bằng cách trộn với H2SO4 70%. Lọc lại TNT , rửa
 
bằng muối cacbonat và phơi khô 1 lần nữa.
 
Cảnh báo: axit nitric 99% rất độc hại ( giải phóng oxit nitơ) và có tính ăn mòn
 
rất cao, oleum cũng tương tự. Hãy sử dụng bao tay và khẩu trang bảo hộ khi làm
 
việc với 2 loại hóa chất này !
 
Phương pháp 1
 
- Cho 50 ml HNO3 99% vào bình, sau đó tiếp tục cho vào 280 g oleum 30%.
 
- Đặt bình axit vào khay đá và làm lạnh hỗn hợp xuống - 5 độ C.
 
- Sau khi hỗn hợp trên đã được làm lạnh, cho từ từ 34g toluen vào ( nên dùng
 
phễu chiết để việc cho toluen thuận tiện hơn, không nên dùng ống nhỏ giọt sẽ
 
rất tốn công sức). Quá trình cho hết lượng toluen diễn ra trong khoảng 1 tiếng rưỡi, bạn nhớ điều chỉnh tốc độ, và nhiệt
 
độ phải luôn giữ ở mức -5 độ C.
 
- khi đã cho hết lượng toluen, tiếp tục khuấy hỗn hợp thêm 30 phút nữa ( dùng máy khuấy cho khỏe nhé), nhưng
 
nhớ là nhiệt độ phải luôn được giữ ở mức -5.
 
- Sau 30 phút khuấy hỗn hợp, ta lấy bình ra khỏi khay đá và để ra ngoài cho hỗn
 
hợp trở về nhiệt độ phòng.
 
- Lại làm lạnh hỗn hợp xuống 0 độ C, ta tiếp
 
tục cho từ từ 572 g oleum 30% vào, quá trình này diễn ra trong khoảng 1 giờ và
 
nhiệt độ được giữ ở 0 độ C.
 
- Khi đã cho hết oleum vào, ta tiếp tục từ từ cho thêm 100g HNO3 99% vào hỗn
 
hợp ( quá trình này mất khoảng 1 giờ) và
 
nhiệt độ vẫn là 0 độ C.
 
- Sau khi toàn bộ lượng HNO3 được cho vào, ta lấy bình ra, và lại để bình trở
 
về nhiệt độ phòng. Đun hỗn hợp ở 70 độ C trong 1 giờ và đun tiếp 30 phút ở 80
 
độ C, 30 phút nữa ở 90 độ C , tổng cộng là đun 2 giờ. ( ta nên đun cách thủy
 
hoặc tốt nhất là dùng máy ) . Khi đun xong, ta để hỗn hợp nguội lại, rồi cho
 
vào khay đá làm lạnh xuống 0 độ C trong 1 giờ, lọc lấy TNT kết tinh.
 
- phần dung dịch còn lại làm lạnh xuống - 10 độ C
 
trong 1 giờ , phần TNT còn lại sẽ kết tinh, ta lại lọc lấy phần TNT này
 
. Rửa tất cả lượng TNT lọc được với 500 ml nước và phơi khô.
 
- Cuối cùng, ta lấy 1 cái cốc và cho vào đó 108 g H2SO4 70%, cho lượng TNT đã
 
phơi khô vào dung dịch này và khuấy đều trong 1 giờ, sau đó lọc lại phần TNT và
 
rửa bằng 1500ml dd NaHCO3 5%, 500 ml nước lạnh và phơi khô!
 
Mình thấy cách này phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, chỉ phù hợp với những bạn
 
có đầy đủ dụng cụ. Nhất là phần giữ nhiệt độ thấp và cố định, còn cả việc khuấy
 
liên tục, thêm hóa chất.. chúng ta khó có thể làm 1 cách thủ công. bạn nên
 
trang bị cho mình 1 máy khuấy từ trường có chức năng làm nóng, 1 phễu chiết để
 
nhỏ dung dịch, như thế sẽ tốt hơn !
 
Phương pháp 2
 
Hóa chất:
 
920 gam toluen
 
2700 gam HNO3 99%
 
8000 gam metylen clorua
 
1600 gam H2SO4 70%
 
8404 gam H2SO4 98%
 
6000 ml NaHCO3 5%
 
- Cho 920 gam toluen, 8404 gam H2SO4 98% , 8000g metylen clorua vào bình .
 
- Chúng ta sử dụng bình dung tích lớn, gắn kèm theo máy khuấy và hệ thống bình
 
ngưng hoàn lưu ( là dụng cụ giúp ta đun nóng chất lỏng mà ko làm chất lỏng bay
 
hơi khỏi bình - reflux)
 
CÁc bạn lưu ý vì đây là điều chế với số lượng lớn nên cần tính toán trước xem
 
chúng ta cần những dụng cụ gì và dung tích bao nhiêu nhé. Với các phương pháp
 
trên thì việc dùng máy khuấy là không thể tránh rồi... tay thì thua thôi!
 
Khi đun nóng, dung dịch bay hơi lên đến cổ bình, tại đây nó được làm lạnh và
 
lại ngưng tụ chảy vào bình, hệ thống này làm lạnh bằng nước ! Có 1 đầu ra và 1
 
đầu vào cho nước chảy.
 
- Cho bình này vào khay đá và khuấy đều với tốc độ
 
cao ( do có gắn các thiết bị kèm theo nên ta chỉ có thể dùng máy khuấy mà
 
thôi). Khi hỗn hợp được làm lạnh xuống 0 độ C, cho từ từ 2700 gam HNO3 99%, quá
 
trình co acid này diễn ra trong 2 giờ, khuấy liên tục và luôn giữ nhiệt độ ở 0
 
độ C.
 
- Sau khi cho xong axit, lấy bình ra và để cho nhiệt độ bình trở lại bình
 
thường, tiếp tục đun nóng hỗn hợp ở 70 độ C trong 2 giờ và nhớ khuấy đều, tiếp
 
tục tăng lên 80 độ và đun trong 2 giờ nữa, và vẫn khuấy liên tục nhé
 
- Sau 4 giờ đun vật vã, ta lấy bình ra và để nguội, cho vào bình 4 lít nước
 
lạnh và khuấy đều trong 20 phút. Lọc lấy TNT kết tinh, gạn lấy phần etylen
 
clorua bên trên hỗn hợ, đem phần etylen này chưng cất ở 40 độ C cho tới khi
 
etylen clorua bay hơi hết, ta sẽ thấy một phần TNT nữa còn lại, lấy phần TNT
 
này và để chung với phần TNT lúc nãy vừa lọc .
 
- Rửa toàn bộ phần TNT với 1 lít nước, sau đó phơi khô.
 
- Ta lại lấy 1 cốc thủy tinh lớn, cho vào đó 1600g H2SO4 70%, cho phần TNT đã
 
phơi khô vào, khuấy đều trong 2 giờ ở nhiệt độ phòng, lọc lại TNT 1 lần nữa.
 
Cuối cùng rửa lại với 6 lít dd NaHCO3 5%, 4 lít nước lạnh và phơi khô.
 
Phương pháp 3
 
Hóa chất:
 
1. 920 gam toluene
 
2. 3820 gam 70% nitric acid
 
3. 8404 gam of 98% sulfuric acid
 
4. 1600 gam of 70% sulfuric acid
 
5. 1500 millilit dd 5% Natri bicacbonat
 
Điều chế:
 
- Cho 3820 gam HNO3 70% vào cốc thủy tinh, sau đó từ từ cho vào đó 8404 gam
 
H2SO4 98%, quá trình cho H2SO4 phải diễn ra trong 2 giờ.
 
- Đem cốc thủy tinh chứa hỗn hợp axit cho vào khay đá và làm lạnh xuống 10 - 15
 
độ C. - Gọi đây là cốc (A)
 
- Lấy 1910 ml hỗn hợp acid ở cốc (A) cho vào 1 cái cốc khác- gọi là cốc (B), và
 
vẫn làm lạnh đến 10 -15 độ C.
 
- Cho từ từ vào cốc (B) 920 gam toluen, quá trình này yêu cầu thời gian là 4
 
giờ đồng hồ. Khuấy liên tục và nhiệt độ không đổi ! SAu khi đã cho hết lượng
 
toluen, tiếp tục khuấy trong 2 giờ vẫn ở nhiệt độ đó.
 
- Cho phần acid còn lại ở cốc A vào hỗn hợp vừa khuấy xong ở cốc B, đun nóng
 
hỗn hợp này đến 70 độ C , cứ đun ở nhiệt độ này trong 2 giờ, khuấy nhanh và
 
liên tục. lại đun thêm 2 giờ nữa ở 80 độ C..( tổng cộng là đun 4 giờ)
 
- Sau 4 giờ đun thì dừng và để cho hỗn hợp nguội lại bằng nhiệt độ phòng, Khi
 
hỗn hợp đã nguội ta đổ hỗn hợp này vào 5 lít nước lạnh, lọc lấy TNT kết tinh.
 
Tiếp tục rửa TNT bằng 2 lít nước, sau đó đem đi làm khô.
 
- Chuẩn bị 1 cốc chứa 1600g H2SO4 70%, cho TNT đã phơi khô vào và khuấy trong 2
 
giờ, lọc lại TNT và rửa TNT bằng 1,5 lit dung dịch NaHCO3 5%, rửa lần cuối bằng
 
2 lít nước lạnh và cuối cùng đem phơi khô !
 
Cách này có ưu điểm là ta không cần dùng HNO3 99%. Nhưng các công đoạn vẫn phải
 
được làm bằng máy !
 
PHƯƠNG PHÁP 4:
 
Hóa chất:
 
1. 920 g toluene
 
2. 2700 g 99% HNO3
 
3. 3000 g xăng không chì
 
4. 1600 g H2SO4 70%
 
5. 1500 ml NaHCO3 5%
 
Procedure:
 
- Cho 920g toluene, 2700g HNO3 99%, 3000g xăng không chì vào bình, bình này được
 
lắp chung với hệ thống đun hoàn lưu và máy khuấy từ.
 
-Đun hoàn lưu hỗn hợp ở 80 độ C trong khoảng 3 giờ, lưu ý không để nhiệt độ
 
vượt quá 85 độ C
 
- Phản ứng có thể diễn ra nhanh hoặc lâu hơn 3 giờ, hãy để ý đến lớp HNO3 bên
 
dưới hỗn hợp, phản ứng sẽ hoàn tất nếu bạn thấy lớp HNO3 này biến mất.
 
- Khi phản ứng hoàn tất, bạn dừng đun và để dung dịch nguội lại, trong quá
 
trình làm nguội này, TNT bắt đầu kết tinh. Bạn không được lọc lấy TNT, mà hãy
 
cho vào đó 3 lit nước nóng và khuấy hỗn hợp trong 2 giờ. Lúc này ta mới lọc lấy
 
TNT ra. phần dung dịch còn lại, bạn chắt lấy phần chất lỏng trên cùng, cho ra
 
một cái đĩa rộng để dung dịch bay hơi , phần TNT còn lại sẽ dần dần kết tinh.
 
- Khi 80% lượng dung dịch đã bay hơi hết, lọc lấy TNT.
 
- Rửa toàn bộ lượng TNT bằng 2 lít nước, làm khô ở 50 độ C.
 
- Cho vào cốc 1,6 lit H2SO4 70%, tiếp tục cho vào đó lượng TNT thu được và
 
khuấy trong 2 giờ và lọc lại TNT.
 
- Cuối cùng rửa lượng TNT bằng 1,5 lit dd NaHCO3 5%, 1 lit nước lạnh và làm khô
 
lần cuối!
 
- Trong phương pháp này cần lưu ý, phần ống đun hoàn lưu, ta lắp thêm 1 lưới
 
chắn và cho lên trên các tinh thể Na2SO4 khan , lưới chắn giúp các tinh thể này
 
ko rơi vào bình!.
 
<nowiki>---------------------------------------------</nowiki>
 
== Tham khảo ==