Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Leopoldo Cintra Frías”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động Sửa đổi từ ứng dụng Android
n →‎Cách mạng: replaced: Tham Mưu → Tham mưu using AWB
Dòng 30:
Ông là một phần của quân cách mạng đi cùng Fidel Castro trên hành trình từ tỉnh Oriente đến Havana, được gọi là ''Hành trình Tự do'', và kết thúc cuộc chiến với cấp trung úy. Fidel Castro thăng cấp ông lên đại úy sau cuộc chiến giữa các phiến quân trong trại Managua. Sau khi tham gia vào hoạt động tại Pico Turquino, ông được bổ nhiệm làm Đội trưởng Đội pháo binh.
 
Năm 1960, ông được gửi đến Tiệp Khắc để nghiên cứu pháo binh để tìm hiểu cách vận hành súng và pháo tự hành của SAU-100. Khi trở về Cuba, ông được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn pháo binh 1900, tại Caimito. Năm sau, ông là Sư đoàn trưởng sư đoàn Bộ binh 1270 và sau đó phụ trách pháo binh. Năm 1964, ông hoàn thành việc học tại Trường Cơ bản Cấp cao và 5 năm sau, ông đã vượt qua Khóa học sĩ quan cao cấp và vào năm 1982 ông tốt nghiệp chỉ huy và nhân viên cấp chiến lược hoạt động tại Học viện Tham Mưumưu Liên Xô.
 
Ông lãnh đạo một đơn vị xe tăng Cuba ở [[Angola]] và [[Ethiopia]] (1978). Ông đã ba lần ở Angola, và là người cuối cùng vào năm 1989, nơi ông chỉ huy phía nam, và lãnh đạo lực lượng Cuba trên mặt đất trong trận chiến Cuito Cuanavale và các hoạt động khác, trong đó cả hai bên tuyên bố chiến thắng. Những chiến thắng chung của quân Cuba, Angola và [[SWAPO|Tổ chức nhân dân Tây Nam Phi]] quyết định các cuộc đàm phán hòa bình đa phương, với Hoa Kỳ "hòa giải", và kết quả là: sự độc lập của [[Namibia]], sự rút khỏi Angola từ Nam Phi, quân đội Cuba rút về nước và xóa bỏ chế độ [[Apartheid]]. Cintra Frías là một phần của phái đoàn Cuba trong những cuộc hội đàm đó. Vai trò của ông trong giai đoạn này của cuộc chiến đã được Chủ tịch Cuba Fidel Castro ca ngợi.