Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Sư Hồi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n replaced: ( → (, . → ., , → , using AWB
Dòng 13:
| tôn xưng =
| bút danh =
| học vấn = <!-- Đỗ Hoàng Giáp , cử nhân -->
| chức quan= [[ Thái úy ]] [[ Phò Mã Đô Úy]] <!-- chức cao nhất -->
| kiểu phối ngẫu = <!-- thê, thiếp, phu quân -->
| phối ngẫu=
Dòng 20:
| phối ngẫu 2 =
| chồng = Nguyễn Sư Hồi
| vợ = lê thi ...( Con Gái Lê Thánh Tông)
| con cái = Nguyễn Đình... <!-- ngăn cách bằng <br> -->
| tước hiệu=
Dòng 48:
 
==Vụ án thơ năm Quang Thuận thứ 3==
Chính sử không ghi chép rõ về quan lộ của Sư Hồi. Sách [[Đại Việt sử ký toàn thư]] lần đầu tiên ghi chép về ông khi [[Lê Thánh Tông]] luận công ban thưởng, ban ruộng thế nghiệp cho một số công thần. Theo đó, [[Lê Lăng]] được cấp 300 mẫu, [[Lê Niệm]] 200 mẫu, [[Lê Nhân Thuận]] 130 mẫu, [[Lê Thọ Vực]], '''Lê Sư Hồi''', [[Lê Nhân Khoái]] 150 mẫu, từ [[Trịnh Văn Sái]] trở xuống, đều được cấp ruộng theo thứ bậc khác nhau.<ref name="ReferenceA">[[Đại Việt sử ký toàn thư]], kỷ Lê Thánh Tông.</ref> Sách [[Khâm định Việt sử thông giám cương mục|Cương mục]] chép khác đi đôi chút: [[Nguyễn Xí|Lê Xí]] và [[Đinh Liệt|Lê Liệt]] mỗi người được 350 mẫu; Lê Lăng 300 mẫu; Lê Niệm 200 mẫu; Lê Nhân Thuận 150 mẫu; Lê Thọ Vực, '''Nguyễn Sư Hồi''' và Lê Nhân Khoái mỗi người 130 mẫu; từ Trịnh Văn Sái trở xuống 22 người đều được cấp ruộng nhiều ít khác nhau.<ref name="ReferenceB">[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]] Chính biên, quyển XIX.</ref> Cần lưu ý, cũn trong Đại Việt sử ký toàn thư, chỉ sau đó vài dòng lại chép tên ông là Nguyễn Sư Hồi, thuộc nhóm chưa được ban quốc tính.<ref>[[Đại Việt sử ký toàn thư]], kỷ Lê Thánh Tông.<name="ReferenceA"/ref> Điều này phù hợp với Cương mục, cho biết ông tuy được phong chức Tả đô đốc, nhưng chưa được ban cho quốc tính.<ref>[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]] Chính biên, quyển XIX.<name="ReferenceB"/ref>
 
Vào khoảng tháng Ba (âl), năm Quang Thuận thứ 3 (1462), một bài thơ tứ tuyệt nặc danh rơi trên phố được tìm thấy với nội dung như sau:
Dòng 66:
:Giống chữ Lai (來) là chữ Lỗi (耒). Ý chỉ [[Nguyễn Lỗi]] thích làm điều phi pháp.
:Bên chữ Thổ (土) có chữ Hoặc (或) là chữ Vực (域). Ý chỉ [[Lê Thọ Vực]] rất hung bạo.
:Chữ Thủy (水) cạnh chữ Tây (西) là chữ Sái (洒). Ý chỉ [[Trịnh Văn Sái]] làm nguy hiểm cho đất nước.<ref>[[Đại Việt sử ký toàn thư]], kỷ Lê Thánh Tông.<name="ReferenceA"/ref>
 
Đình thần đều định tội cho Sư Hồi là tác giả bài thơ và định cho ông tội chết. Tuy nhiên vua Lê Thánh Tông xét công cha con ông nên đã tha ông tội chết và phủ dụ các đại thần, cho rằng không đủ bằng chứng để kết tội ông là tác giả bài thơ trên, cũng như nội dung bài thơ không có ý phản nghịch.<ref>[[Đại Việt sử ký toàn thư]], kỷ Lê Thánh Tông.<name="ReferenceA"/ref> Cương mục chép ông được nhà vua tha cho, không bắt trừng trị.<ref>[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]] Chính biên, quyển XIX.<name="ReferenceB"/ref>
 
Chính sử đều ghi chép ông vì xung đột với các đại thần trên nên mới làm bài thơ vứt ra đường nhưng chưa kịp lưu truyền thì bị phát giác. [[Lê Quý Đôn]] trong [[Đại Việt Thông sử]] chép ông ''"tính người giảo quyệt, thâm hiểm, làm thơ nặc danh, vứt ra ngoài đường, cho truyền đến tai vua, muốn lật đổ Lê Niệm và Nguyễn Lỗi"''.<ref>[[Đại Việt Thông sử]]</ref> Tuy nhiên, có lẽ nhận định của Thánh Tông là xác đáng hơn cả.
Dòng 75:
Tuy không giáng tội bài thơ, nhưng vua trách phạt cha con ông về một tội danh khác.
 
Tháng Chạp (âl), năm Quang Thuận thứ 4 (1463), vua ra dụ trách cha con ông về tội ăn của đút. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép sự việc này như sau:<ref>[[Đại Việt sử ký toàn thư]], kỷ Lê Thánh Tông.<name="ReferenceA"/ref>
 
:''"Dương Quốc Minh bảo là Ngô Tây lấy 30 lạng bạc trao cho Nguyễn Hồ đến đút lọt bọn ngươi. Ngươi sai vợ lẽ ngươi nhận lấy. Vả khi trước nó đút lót cho cha ngươi là Xí 50 lạng, nay chuyển sang đút lót cho ngươi, tất cả là 80 lạng, hiện còn ở nhà ngươi, ngươi lại không biết hay sao? Nay đặc sai Tư lễ giám Nguyễn Áng đem sắc chỉ tới bảo ngươi và đòi lấy số 80 lạng đút lót ấy mang về. Ngươi có tội mà không ngại sửa bỏ tội lỗi thì sau này chắc chắn không bị tai họa"''.
Dòng 85:
 
==Bảo vệ và phát triển vùng biên cương==
Chính sử sau đó không chép thêm về ông. Theo Thần phả đền Vạn Lộc và một số tài liệu lịch sử địa phương, vào khoảng năm 1469, ông được giao chỉ huy lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển phía Nam Đại Việt, gồm 12 cửa lạch (Thập nhị hải môn) kéo dài từ cửa biển [[Sầm Sơn]] ([[Thanh Hóa]]) vào đến [[Cửa Tùng]] ([[Quảng Trị]]).
 
Khi vào trấn nhậm, ông đã chọn vùng cửa Xá cạnh làng Thượng Xá quê hương làm đại bản doanh. Ông cũng cho xây dựng một tuyến phòng thủ ven biển dài từ mũi Gươm đến đồn tiền tiêu nhằm phóng giữ các cuộc tấn công của quân [[Chiêm Thành]]. Ông cũng quan tâm phát triển kinh tế, chiêu tập dân cư, dùng các tù binh để khai phát đất đai, đắp đê ngăn mặn, khai hoang lập ấp, lập nên làng Vạn Lộc.
Dòng 91:
Theo thần phả, ông qua đời ngày 21 tháng Năm (âl) năm Thái Trinh thứ 3 (1506), triều vua [[Lê Túc Tông]], tại vùng Cửa Xá. Theo Thần phả đền Vạn Lộc, ông được truy phong tước "Thái bảo phò mã đô úy tham dự triều chính".
 
Sau khi ông qua đời, nhân dân trong vùng ghi nhớ công ơn mà lập đền thờ và tôn ông làm Thành hoàng. Trải qua thăng trầm, đề thờ ông được dời đến vùng đất cạnh sông Cấm như ngày nay. Ngôi đền được Nhà nước Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia vào năm 1991.<ref>[http://www.baobinhphuoc.com.vn/Content/luu-danh-muon-thuo-55069 Lưu danh muôn thuở]</ref> Lễ húy kỵ của ông vẫn được người dân vùng Cửa Lò tổ chức vào ngày 21 tháng Năm (âl) hàng năm.<ref>[http://cualo.vn/nghi-tan-le-huy-ky-thai-uy-nguyen-su-hoi/ Lễ húy kỵ Thái úy Nguyễn Sư Hồi]</ref>.
 
==Chú thích==
Dòng 97:
 
==Tham khảo==
 
 
{{thời gian sống|1444|1506}}