Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nước cường toan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 6:
 
== Một số phương trình phản ứng ==
Các axít riêng biệt trong nước cường toan tự nó không thể hòa tan được vàng. Khi kết hợp với nhau tạo thành nước cường toan, mỗi axít thực hiện một nhiệm vụ khác nhau. [[Axit nitric|Axít nitric]] (chất ôxi hóa mạnh) sẽ hòa tan một lượng rất nhỏ vàng, tạo ra những ion vàng (Au<sup>3+</sup>). [[Axit clohydric|Axít clohiđric]] sẵn sàng cung cấp những ion clo (Cl<sup>-</sup>), các ion này sẽ kết hợp với ion vàng để tạo ra các anion cloraurat (AuCl<sub>4</sub><sup>-</sup>). Vì phản ứng với axít clohiđric là phản ứng hoàn toàn nên các ion vàng sẽ kết hợp hết với các ion clo, cho phép sự ôxi hóa vàng tiếp tục diễn ra. Cứ như vậy, vàng sẽ bị hòa tan hết. Thêm vào đó, vàng có thể bị ôxi hóa bởi clo tự do. Các phương trình của những phản ứng trên được biểu diễn như sau:
 
:Au ''(rắn)'' + 3 NO<sub>3</sub><sup>-</sup> ''(dung dịch)'' + 6 H<sup>+</sup> ''(dung dịch)'' → Au<sup>3+</sup> ''(dung dịch)'' + 3 NO<sub>2</sub> ''(khí)'' + 3 H<sub>2</sub>O ''(lỏng)''
:Au<sup>3+</sup> ''(dung dịch)'' + 4 Cl<sup>-</sup> ''(dung dịch)'' → AuCl<sub>4</sub><sup>-</sup> ''(dung dịch)''
 
Phản ứng ôxi hóa trong trường hợp sản phẩm tạo thành là [[Nitơ monoxit|nitơ mônôxít]] thay vì [[nitơ điôxít]]:
 
:Au ''(rắn)'' + NO<sub>3</sub><sup>-</sup> ''(dung dịch)'' + 4 H<sup>+</sup> ''(dung dịch)'' → Au<sup>3+</sup> ''(dung dịch)'' + NO ''(khí)'' + 2 H<sub>2</sub>O ''(lỏng)''
Chuỗi phản ứng hòa tan [[Platin|bạch kim]] trong nước cường toan (tương tự như với [[vàng]]):
 
:Pt ''(rắn)'' + 4 NO <sub>3</sub><sup>-</sup> ''(dung dịch)'' + 8 H<sup>+</sup> ''(dung dịch)'' → Pt<sup>4+</sup> ''(dung dịch)'' + 4 NO<sub>2</sub> ''(khí)'' + 4 H<sub>2</sub>O ''(lỏng)''
Dòng 44:
== Lịch sử ==
[[Tập tin:Jabir ibn Hayyan.jpg|nhỏ|200px|phải|Chân dung Jabir ibn Hayyan, bản vẽ tay thời trung cổ, tác giả: Khuyết danh]]
Axít clohidric được phát hiện lần đầu tiên vào khoảng năm [[800]] bởi nhà giả kim người Hồi giáo [[Abu Musa Jabir Ibn Hayyan|Jabir Ibn Hayyan (Gaber)]], bằng cách trộn muối ăn với [[axít sunfuric|axít sulfuric]]. Phát minh của Jabir về nước cường toan, bao gồm [[Axit clohydric|axít clohiđric]][[Axit nitric|axít nitric]], đã đóng góp vào sự cố gắng tìm kiếm đá tạo vàng của những nhà giả kim thuật.
 
Khi [[Đức]] xâm chiếm [[Đan Mạch]] trong Chiến tranh thế giới thứ II, nhà hóa học người Hungary [[George de Hevesy]] đã hòa tan những huân chương Nobel bằng vàng của [[Max von Laue]] và [[James Franck]] vào nước cường toan để ngăn không cho bọn [[Đức Quốc Xã|phát xít]] ăn cắp chúng. Ông đã cất giữ dung dịch sau phản ứng trên ngăn sách trong phòng thí nghiệm của mình tại học viện [[Niels Bohr]]. Sau [[chiến tranh]], ông trở lại, thấy dung dịch không hề suy chuyển, tiến hành kết tủa để thu lại vàng ra khỏi axít. Số [[vàng]] này đã được hoàn trả về viện Hàn Lâm Khoa học Hoàng Gia Thụy Điển để đúc lại những huân chương mới cho [[Max von Laue|Laue]] [[James Franck|Franck]].[http://nobelprize.org/nobel/medals/index.html]
 
== Những nguồn tham khảo ==