Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Đế quốc La Mã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 14:
Sau khi Caesar bị ám sát vào năm 44 TCN, đã có một cuộc nội chiến xảy ra trong những năm tiếp theo. Cuối cùng, [[Octavian]] (người được Caesar chỉ định thừa kế mình) đã giành chiến thắng trước mọi đối thủ. Trong đó đáng chú ý nhất là năm 31 TCN ông đã đánh bại hoàn toàn [[Mark Antony]] và [[Cleopatra]] trong [[trận Actium]]. Octavian cũng cho xử tử con trai của Cleopatra là [[Caesarion]] (người có thể là đứa con trai duy nhất của Caesar).
 
Không còn đối thủ chính trị nào ngáng đường, Octavian trở về [[RomeRoma|kinh thành La Mã]] để nắm quyền. Năm 27 TCN, ông được Viện nguyên lão tôn lên thành [[Augustus]] (mang nghĩa: người ở địa vị tối cao hoặc thiêng liêng). Ông trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên và thời đại Cộng hòa La Mã cũng chấm dứt từ năm này.
 
==Thời đại thịnh trị của Augustus (27 TCN-14)==
Dòng 20:
Octavian hiểu rằng sự chuyên quyền và chế độ quân chủ là những thứ không hề được người La Mã ưa thích. Những nhà cai trị độc tài trong thời Cộng hòa đều không nắm quyền được lâu và sự kiện ám sát Julius Caesar vẫn còn đó để cảnh tỉnh Octavian. Octavian không muốn bị xem như một tên bạo chúa chuyên quyền, vì vậy mà ông tìm cách hợp pháp hóa địa vị của mình thông qua Viện nguyên lão. Vào năm 27 TCN, Octavian tuyên bố trao trả quyền hành của mình về tay Viện nguyên lão<ref>Abbott, 267</ref> một cách rất có tính toán. Viện nguyên lão, lúc đó gồm toàn những người ủng hộ ông và được ông dàn xếp trước, đã từ chối và khẩn cầu ông ở lại. Octavian chấp thuận và trở thành Augustus.<ref>Abbott, 268</ref> Một thỏa thuận được xác lập giữa Viện nguyên lão và Augustus, thường gọi là [[Thỏa thuận thứ nhất]], trao cho ông quyền hợp pháp để cai trị mọi người. Augustus đã đạt được thứ mình cần, và từ đây mở ra thời đại thịnh trị [[Pax Romana]] của La Mã. Ông thường được xem như vị hoàng đế vĩ đại nhất của Đế chế La Mã và đã đặt những nền móng vững chắc cho sự phát triển qua hàng thế kỷ của nó.
 
Ở trong nước, Augustus bắt đầu cải tổ trên diện rộng về quân sự, chính trị và tài chính. Những cải cách của ông giúp làm dịu đi tình hình căng thẳng của Đế chế La Mã và củng cố chế độ mới. Về mặt quân sự, các [[quân đoàn La Mã]], vốn đạt tới con số cao chưa từng có (khoảng 50) vì những cuộc nội chiến, được Augustus giảm xuống còn 28. Các quân đoàn có những kẻ mà lòng trung thành bị đặt nghi vấn đều bị giải tán và nhiều quân đoàn bị trộn lẫn vào nhau. Augustus cũng tạo ra 8 đội quân đặc biệt để gìn giữ hòa bình ở Italia, và để 3 đội trong số đó ở Romekinh đô La Mã. Những đội quân này được gọi là [[Đội vệ sĩ của Hoàng đế La Mã]] (tiếng Anh: Praetorian Guard). Về mặt chính trị, cái vỏ Cộng hòa vẫn còn, nhưng thực tế thì quyền lực chủ yếu nằm trong tay ông. Về hành chính, Augustus chia sẻ quyền đề cử thống đốc các tỉnh với Viện nguyên lão. Các tỉnh khó kiểm soát ở biên giới sẽ được điều hành bởi những người do ông chọn (được gọi là [[các tỉnh của hoàng đế]]). Các tỉnh yên bình hơn thì thống đốc sẽ do Viện nguyên lão quyết định (được gọi là [[các tỉnh của Viện nguyên lão]])
 
Về mặt tài chính, trước khi Viện nguyên lão kiểm soát ngân khố, Augustus định ra rằng tiền thuế từ các tỉnh của hoàng đế sẽ được chuyển vào [[Fiscus]] (một ngân khố riêng của hoàng đế). Điều này khiến Augustus trở nên giàu hơn cả Viện nguyên lão và dư dả tiền bạc để đảm bảo sự trung thành của binh lính. Trong số các tỉnh của hoàng đế, đặc biệt có [[Ai Cập]] là một vùng rất trù phú, và các thành viên Viện nguyên lão thậm chí còn không được phép tới đây. Vào năm 23 TCN, Augustus xác lập [[Thỏa thuận thứ hai]] giữa ông và Viện nguyên lão, về danh nghĩa thì địa vị của ông có thay đổi, nhưng quyền lực thì vẫn to lớn như trước. Vinh quang của ông lớn đến mức người ta đổi tên tháng 8 để vinh danh ông (August).
Dòng 27:
 
==Vương triều Julio-Claudia (14-68)==
Augustus qua đời để lại ba cháu trai được sinh hạ bởi con gái của ông là [[Julia the Elder]], gồm [[Gaius Caesar]], [[Lucius Caesar]] and [[Agrippa Postumus]]. Không ai trong số đó còn sống để kế vị ông. Ngôi vị vì thế được trao đến [[Tiberius]], vốn là con riêng của [[Livia]] (vợ thứ 3 của Augustus) với chồng cũ là [[Tiberius Nero]]. Augustus là người thuộc dòng họ Julia, một trong những dòng dõi quý tộc lâu đời nhất ở Romekinh đô La Mã, còn Tiberius thuộc dòng họ Claudia, cũng lâu đời chẳng kém gì dòng họ Julia. Ba người kế vị sau đó đều thuộc dòng họ Claudia hoặc Julia nên giai đoạn này được gọi là [[vương triều Julio-Claudia]].
 
====Tiberius (14-37)====
Những năm đầu triều đại Tiberius diễn ra thái bình khi ông bảo vệ được quyền lực của RomeĐế quốc La Mã và làm đầy thêm ngân khố. Thế nhưng sau đó Tiberius trở nên hoang tưởng và hay nghi ngờ. Năm 19, nhiều người quy tội cho ông vì cái chết của người cháu là [[Germanicus]],<ref>Tacitus, Annals III.16</ref> vốn là một danh tướng nổi tiếng. Năm 23, đến lượt con ruột của Tiberius là [[Julius Caesar Drusus]] cũng chết. Vị hoàng đế bắt đầu một loạt những phiên tòa xử tội mưu phản và các màn tra tấn hành hạ.
 
Tiberius giao quyền cho một viên tướng là [[Sejanus|Lucius Aelius Sejanus]] rồi tới [[Capri (đảo)| đảo Capri]] ở ẩn từ năm 26.<ref>Tacitus, Annals IV.67</ref> Sejanus bắt đầu củng cố quyền lực và ông cũng tiếp tục những màn hành hạ của Tiberius. Vào năm 31, Sejanus được phong là đồng Chấp chính quan (tiếng Anh: consul) cùng Tiberius và cưới cháu gái của hoàng đế là [[Livilla]]. Thế nhưng, ngay trong năm đó, ông lại bị chính thứ mà mình đã lợi dụng để làm bàn đạp tiến thân hại chết: sự hoang tưởng lo sợ của Tiberius. Sejanus và phe cánh của ông bị kết tội mưu phản và xử tử. Những vụ hành hạ tiếp tục kéo dài cho tới khi Tiberius chết vào năm 37.
Dòng 42:
 
====Claudius (41-54)====
Claudius là em của Germanicus và trước đây luôn bị coi là một kẻ ngu ngốc và có thể trạng yếu đuối.<ref>Seneca Apocolo. 5, 6.</ref> Thế nhưng ông là một nhà cai trị giỏi, không bị hoang tưởng như Tiberius hay điên loạn như Caligula. Ông cải tiến hệ thống hành chính và giải quyết các vấn đề liên quan tới công dân và Viện nguyên lão. Dưới thời Claudius, lãnh thổ của Đế chế được mở rộng đáng kế với sự sáp nhập các tỉnh [[Thrace]], [[Noricum]], [[Pamphylia]], [[Lycia]], [[Judea]] và [[Mauretania]],<ref>Pliny 5.1–5.2, Cassius Dio, 60.8, 60.9</ref> cùng cuộc chinh phục xa nhất là tới đảo Anh vào năm 43.<ref>Scramuzza, Chap. 9</ref> Claudius cũng cho tổ chức lại các tỉnh phía đông của đế chế và xây một cảng ở [[Ostia Antica]], giúp ngũ cốc có thể chuyển về Romekinh thành La Mã trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
 
Thế nhưng Claudius lại thất bại trong đời sống gia đình. Vợ ông là Hoàng hậu dâm đãng [[Messalina]] phản bội ông và bị xử tử.<ref>Farquhar, Michael (2001). ''A Treasure of Royal Scandals'', p.212. Penguin Books, New York. ISBN 0739420259.</ref> Sau đó ông cưới cháu mình là [[Julia Agrippina|Agrippina the YoungerTrẻ]] (em gái của Caligula), và có thể chính người phụ nữ này đã đầu độc ông vào năm 54,<ref>Tacitus, ''Annals'' [[wikisource:The Annals (Tacitus)/Book 12#66|XII.66]]; Cassius Dio, ''Roman History'' [http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/Cassius_Dio/61*.html#34 LXI.34]; Suetonius, ''The Lives of Twelve Caesars'', Life of Claudius [http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/Suetonius/12Caesars/Claudius*.html#44 44]; Josephus is less sure, Josephus, ''Antiquities of the Jews'' [[wikisource:The Antiquities of the Jews/Book XX#Chapter 8|XX.8.1]].</ref> mở đường cho con trai của bà ta là Lucius Domitius Nero lên ngôi hoàng đế (Nero không phải là con của Claudius mà là con riêng của của Agrippina với chồng trước là [[Gnaeus Domitius Ahenobarbus]]).
 
====Nero (54-68)====
[[Image:Dirce.jpg|thumb|350px|Tranh ''A Christian Dirce'' của [[Henryk Siemiradzki]] mô tả cảnh một người phụ nữ theo đạo Thiên chúa bị hành quyết bằng cách dựng lại truyền thuyết về [[Dirce]].]]
[[Nero]] chú trọng vào ngoại giao, thương mại, và đóng góp nhiều vào văn hóa. Ông cho xây nhiều nhà hát và khuyến khích các trò mua vui trong đấu trường. Điều này làm người dân thành RomeLa Mã rất yêu thích ông, mặc dù thực sự thì ông là một bạo chúa.
 
Triều đại của Nero được đánh dấu bằng một chiến thắng quân sự và sau đó là hòa ước với [[Đế chế Parthia]] (58–63),<ref name="cassiusdio-lxii-23">Cassius Dio, ''Roman History'' [http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/Cassius_Dio/62*.html#23 LXII.23].</ref> một cuộc nổi loạn bị dập tắt (60-61),<ref>Tacitus, ''Annals'' [[wikisource:The Annals (Tacitus)/Book 14#31|XIV.31–38]].</ref> và việc thắt chặt sự liên hệ với văn hóa Hy Lạp.<ref name="annals-xiv-20">Tacitus, ''Annals'' [[wikisource:The Annals (Tacitus)/Book 14#20|XIV.20]].</ref> Thế nhưng Nero lại là kẻ tự cao tự đại và luôn căng thẳng với mẹ mình (cuối cùng ám sát bà vào năm 59).<ref>Tacitus, "The Annals".</ref> Ông cũng luôn tìm cách đàn áp những người theo [[Thiên Chúa giáo]], thường đổ tội cho họ là thủ phạm gây ra những bất ổn trong chế độ của mình.
 
Nhiều nhà sử học cho rằng chính Nero đã hạ lệnh đốt kinh thành RomeLa Mã trong [[Đại hỏa hoạn thành Roma|vụ cháy nổi tiếng năm 64]] để lấy chỗ xây dựng những công trình của mình.<ref>Tacitus Annals XV.44.</ref> Một trong những lý do khiến người ta nghĩ vậy là việc Nero tin mình là một vị thần và xây một cung điện tráng lệ cho ông ta ([[Domus Aurea]]) ngay trên đống đổ nát sau vụ cháy.<ref>Tacitus, Annals XV.42.</ref> Nero cũng nhân cơ hội này để vu tội phóng hỏa cho các tín đồ Thiên chúa giáo và bức hại họ.<ref>Tacitus Annals XV.44.</ref>
 
Một vụ nổi loạn của quân đội đã buộc Nero phải ẩn trốn vào năm 68. Đối mặt với việc bị xử tử bởi Viện nguyên lão, Nero đã tự sát.<ref name="ReferenceA">Suetonius, ''The Lives of Twelve Caesars'', Life of Nero [http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/Suetonius/12Caesars/Nero*.html#49 49].</ref>
Dòng 59:
[[File:Roman Empire 69AD.PNG|thumb|right|340px|Đế chế La Mã vào năm 69. Sau cái chết của Nero, bốn vị tướng hùng mạnh nhất trong Đế chế đã thay nhau chiếm giữ ngôi vị]]
{{Main|Năm của bốn hoàng đế}}
Cái chết của Nero dẫn đến một cuộc chiến giành ngôi. Đây là lần đầu tiên La Mã có một cuộc nội chiến kể từ sau cái chết của Mark Anthony vào năm 31 TCN. Bốn vị tướng hùng mạnh từ bốn vùng của Đế chế đã lần lượt đấu đá với nhau để lên ngôi. Từ tháng 6 năm 68 đến tháng 12 năm 69, kinh thành RomeLa Mã đã lần lượt chứng kiến sự thăng trầm của [[Galba]], [[Otho]] và [[Vitellius]], cho đến khi [[Vespasian]] khởi đầu [[vương triều Flavia]]. Giai đoạn này được xem như ví dụ tiêu biểu cho sự bất an chính trị trong lịch sử Đế chế La Mã, nó chứng tỏ rằng bất cứ vị tướng nào cũng có thể tranh giành ngai vàng, nếu đủ mạnh.<ref>Abbott, 298</ref>
 
Đầu tiên, Galba (được các quân đoàn ở Tây Ban Nha hậu thuẫn) đã tiến vào Romethành La Mã vào tháng 6/68 và nắm quyền tới tháng 1/69 thì bị ám sát. Otho lên ngôi, nhưng sau khi để thua [[trận Bedriacum]] trước đối thủ của mình là Vitellius (được các quân đoàn German hậu thuẫn) thì ông đã tự sát. Vitellius tại vị từ tháng 4/69, nhưng rồi tới lượt ông cũng bị ám sát vào tháng 12/69. Cuối cùng, Vespasian (được các quân đoàn ở phần đông của Đế chế hậu thuẫn) lên ngôi và chấm dứt cuộc nội chiến.<ref>Luttwak, The Grand Strategy of the Roman Empire, trang 52</ref>
 
==Vương triều Flavia (69-96)==
Dòng 67:
 
===Vespasian (69-79)===
Vespasian tiếp tục quá trình làm suy yếu Viện nguyên lão. Họ buộc phải ghi nhận ngày lên ngôi của Vespasian là ngày 1 tháng 7 (ngày quân đội tôn ông lên làm hoàng đế), thay vì ngày 21 tháng 12 (ngày Viện nguyên lão chính thức xác nhận chuyện đó). Vào năm 73, Vespasian nắm luôn quyền tổ chức Viện nguyên lão. Ông tống cổ các thành viên phản đối mình và nâng tổng số thành viên của Viện nguyên lão lên con số 1000, với hầu hết các thành viên mới tới từ khắp các vùng ở Italy và Tây Âu, thay vì chỉ ở kinh thành RomeLa Mã.
[[Image:Roman Colosseum With Moon.jpg|thumb|Vespasian xây đấuđại hý trường ColosseumRomethành La Mã.]]
Về kinh tế và xã hội, Vespasian có công cứu Đế chế thoát khỏi gánh nặng tài chính gây ra do thói hoang phí của Nero và các cuộc nội chiến. Ông nâng thuế và đặt ra các loại thuế mới. Khi quốc khố đã dồi dào, ông cho xây dựng nhiều công trình công cộng, đáng chú ý nhất là việc khởi công [[Đấu trường La Mã|đấuĐại trường Colosseumtrường]] nổi tiếng. Ông cũng cho xây dựng một nơi hội họp (tiếng Anh: forum) và trợ cấp nhiều tiền bạc cho các ngành nghệ thuật cũng như là những người viết lách.
 
Về chính trị, Vespasian là vị hoàng đế cai trị có hiệu lực ở các tỉnh. Ở phía tây, ông ưu ái xứ [[Hispania]] ([[bán đảo Iberia]]), trao [[quyền La tinh]] (một mức trung gian giữa quyền công dân La Mã đầy đủ và không có quyền công dân La Mã) cho hơn 300 thành thị, tạo ra một kỷ nguyên mới cho việc đô thị hóa ở những tỉnh từng một thời là man tộc. Nhờ vào những cải cách của ông ở Viện nguyên lão mà các tỉnh của Viện nguyên lão có tầm ảnh hưởng lớn hơn, và vì vậy giúp Đế chế hợp nhất hơn.
Dòng 76:
 
===Titus (79-81)===
Titus là con trưởng của Vespasian và là một đại tướng có tài, từng chỉ huy quân La Mã ở [[Syria]] và [[Iudaea]]. Ông đã đập tan cuộc nổi dậy của người Do Thái trong thời gian cầm quân, và vào năm 70, ông đã đánh chiếm [[Jerusalem]]. Sau khi lên ngôi, Titus được các nhà sử học xem là một ông vua giỏi. Ông đã gọi về những người bị cha mình đày đi. Khi thành [[Pompeii]] bị tàn phá sau sự kiện núi lửa [[Vesuvius]] phun trào (năm 79) và thành RomeLa Mã bị hỏa hoạn (năm 80), ông đã mạnh tay tu sửa những nơi này và giành được sự yêu mến của dân chúng. Trong thời gian ở ngôi ngắn ngủi, Titus cũng đã hoàn tất đấu trường Colosseum được xây từ thời cha mình.
 
===Domitian (81-96)===
Dòng 93:
===Trajan (98-117)===
[[File:RomanEmpire 117.svg|thumb|300px|Sự mở rộng của La Mã dưới thời Trajan.]]
Triều đại của Trajan được đánh dấu bằng những chiến công to lớn ngoài chiến trường. Sau khi lên ngôi, Trajan chuẩn bị kỹ lưỡng và tiến hành một chiến dịch quân sự nhắm vào Dacia, nơi đã đối đầu với Rome từ lâu. Năm 101, Trajan tự mình vượt sông Danube và đánh bại vua Dacia là [[Decebalus]] ở Tapae (xem [[trận Tapae lần hai]]). Vị hoàng đế không tiếp tục chinh phục triệt để vì cần tái tổ chức lại quân đội, nhưng thay vào đó ông buộc người Dacia phải ký một hòa ước với những điều khoản hết sức nặng nề. Năm 105, Trajan một lần nữa tiến quân và sau một năm chinh chiến thì đã đánh chiếm được thủkinh đô của người Dacia là [[Sarmizegetusa Regia]]. Vua Decebalus tự sát để không rơi vào tay địch và từ đó Dacia trở thành một tỉnh của La Mã. Cuộc chinh phục Dacia được xem là một chiến tích lớn của Trajan. Ông hạ lệnh ăn mừng trong 123 ngày trên toàn đế chế và cho xây dựng [[cột trụ Trajan]] ở Rome để tôn vinh chiến thắng.
 
Cũng cùng khoảng thời gian này thì một trong những vị vua chư hầu của Rome là [[Rabbel II Soter]] đã qua đời. Sự kiện đó có thể đã dẫn đến sự sáp nhập [[vương quốc Nabataean]] vào La Mã. Trên vùng đất này, người La Mã lập ra tỉnh [[Arabia Petraea]] (ngày nay thuộc Nam [[Jordan]] và Tây Bắc [[Ả Rập Saudi]]).<ref>Bennett, Trajan, 172-182</ref>
Dòng 99:
Từ thời Nero, hai đế chế La Mã và Parthia đã cùng chia sẻ việc kiểm soát [[vương quốc Armenia]], với vương triều Arsacid ở đây là một nhánh của hoàng tộc Parthia. Năm 112, Trajan tức giận vì việc vua [[Osroes I của Parthia]] đưa cháu mình là [[Exedares]] lên ngai vàng Armenia. Sự kiện này đã phá vỡ thế cân bằng quyền lực ở Armenia và cũng chấm dứt luôn hòa ước giữa hai đế chế đã tồn tại 50 năm.<ref>Statius Silvae 5.1; Dio Cassius 68.17.1.; Arrian Parthica frs 37/40</ref> Các quân đoàn La Mã lại sẵn sàng xung trận.
 
Đầu tiên, Trajan tiến quân vào Armenia. Ông phế truất vị vua mới lên ngôi và sáp nhập nơi đây vào La Mã. Sau đó ông hướng về Parthia, chiếm các thành phố [[Babylon]], [[Seleucia]] và cuối cùng là thủkinh đôthành [[Ctesiphon]] (năm 116).<ref>Bennett, Trajan, 197/199</ref> Trajan tiếp tục tiến về phía nam tới [[Vịnh Ba Tư]] và tuyên bố [[MesopotamiaLưỡng Hà]] là một tỉnh mới của Đế chế. Ở đây, ông than thở rằng mình đã quá già để có thể tiếp tục tiến theo lộ trình chinh phạt vĩ đại của [[Alexander Đại đế]].<ref name="Luttvak, Grand Strategy, 110">Luttvak, Grand Strategy, 110</ref>
 
Nhưng Trajan chưa dừng lại. Sau đó, cũng trong năm 116, ông chiếm thành phố [[Susa]], truất ngôi Oesroes I và đưa bù nhìn của mình là [[Parthamaspates]] lên ngôi. Chưa bao giờ La Mã tiến xa về phía đông như vậy. Dưới thời của Trajan, Đế chế La Mã mở rộng ra tới mức cực đại; người ta có thể đi từ đảo Anh tới vịnh Ba Tư mà vẫn chưa ra khỏi lãnh thổ La Mã.
 
===Hadrian (117-138)===
Mặc dù cũng là một nhà quân sự giỏi nhưng vào thời Hadrian không có nhiều cuộc chiến tranh, ngoại trừ [[cuộc nổi loạn Bar Kokhba]] của người Do Thái (132-135). Ông không tiếp tục theo đuổi những chiến dịch chinh phạt triệt để đầy tham vọng của Trajan ở MesopotamiaLưỡng Hà vì nghĩ rằng nơi đây khó phòng thủ được. Suýt chút nữa đã có một cuộc chiến với [[Vologases III]] ở đông Parthia vào năm 121, nhưng nó đã được ngăn lại bằng một hòa ước.
 
Ông chú tâm vào việc phòng thủ đế chế rộng lớn của mình nhiều hơn. Hadrian là vị hoàng đế đầu tiên đi kinh lý bao quát các tỉnh, chi tiền cho các công trình xây dựng ở địa phương nơi ông tới. Nhiều người đời sau nhớ tới ông nhờ việc xây dựng [[bức tường Hadrian]] nổi tiếng ở Anh. Ngoài ra ông cũng xây dựng một loạt những tiền đồn, pháo đài, tháp canh và công sự dọc sông Danube và sông Rhine.
 
===Antoninus Pius (138-161)===
Ông được xem là một đại minh quân trong lịch sử La Mã cổ, có lối sống giản dị.<ref>Ernest Renan, ''Marcus Aurelius'', trang 2</ref> Đế chế La Mã tiếp tục phát triển thịnh vượng và hòa bình. Thậm chí có một nhà sử học hiện đại còn cho là trong suốt thời kỳ trị vì của Antoninus Pius, ông chưa từng lại gần một quân đoàn nào trong bán kính 500 dặm.<ref>J. J. Wilkes, ''The Journal of Roman Studies'', Volume LXXV 1985, ISSN 0075-4358, p. 242.</ref> Có những cuộc đụng độ ở [[Mauretania]], [[Judaea]], và với người [[Brigantes]] ở Anh Quốc, nhưng không có lần nào là đáng kể.
[[Image:Marcus Aurelius Glyptothek Munich.jpg|thumb|left|[[Marcus Aurelius]]]]
 
Dòng 166:
==Vương triều Constantine (305-363)==
===Constantine và các con trai===
Hệ thống ''Tứ đầu chế'' bị phá vỡ khi [[Constantius Chlorus]] mất vào năm 306. Lực lượng của Constantius ở [[Eboracum]] ngay lập tức suy tôn con trai của ông ta là [[Constantinus I|Constantine I]] (còn được biết đến như là Constantine Đại đế) thành Augustus. Vào tháng 8 năm 306, Galerius phong cho Severus thành Augustus. Một cuộc nổi loạn ở Romekinh đô La Mã đưa một người nữa tham gia cuộc tranh giành là [[Maxentius]], con trai của Maximian, với sự ủng hộ của Đội vệ sĩ của Hoàng đế La Mã. Như vậy ở phía tây của Đế chế có tới 3 Augustus: một nguyên là Caesar đời trước và hai do quân đội lập nên.
 
Vào năm 307, Maximian trở lại với danh hiệu Augustus và cùng cai trị với con mình. Như vậy tổng cộng thì La Mã có tới 6 người cai trị (5 Augustus: Galerius, Severus, Constantine, Maxentius, Maximian và 1 Casear: Maximinus). Galerius và Severus tấn công hai cha con Maximian ở Italy, nhưng Severus bị bắt giết vào năm 307.<ref>Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 30–31; Elliott, ''Christianity of Constantine'', 41–42; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 62–63; Odahl, 86–87; Potter, 348–49.</ref> Hai vị Augustus ở Italy sau đó kết liên minh với Constantine bằng cách gả con gái của Maximian cho ông.
Dòng 174:
Hai việc làm đáng nhớ nhất dưới thời Constantine là cải sang đạo Thiên chúa và phát triển thành phố [[Constantinople]]. Năm 313, Constantine công bố chấp nhận Thiên chúa giáo trong [[Sắc lệnh Milan]]. Sắc lệnh này cho phép những người đạo Thiên chúa giáo có quyền theo đuổi đức tin của họ.<ref>Bowder, Diana. ''The Age of Constantine and Julian''. New York: Barnes & Noble, 1978</ref> Hệ quả của sắc lệnh này là việc bãi bỏ những trừng phạt đối với những người theo Thiên chúa giáo và trả lại các tài sản đã bị tịch thu của [[Giáo hội Công giáo Rôma|Giáo hội]]. Sau đó ông tuyên bố chính mình cũng là một tín đồ của Thiên chúa giáo. Sự chuyển đổi của ông và sự bảo trợ Giáo hội của ông đã thiết lập lại vị thế mới của Thiên chúa giáo trong toàn đế chế. Những người Thiên chúa giáo theo [[Chính thống giáo Đông phương]] xem ông như là Thánh Constantine.<ref>Pohlsander, ''Emperor Constantine'', 83–87.</ref>
 
Năm 324, Constantine tuyên bố quyết định biến Byzantium thành Nova Roma (ThànhTân RomeLa mới) và vào 11 tháng 5, 330, ông chínhdời thứcđô tuyên bốtừ thành phốLa này là thủ đô mới của Đếvề chếTân La Mã. Thành phố được đặt tên lại là Constantinople (Thành phố của Constantine) sau khi Constantine mất năm 337. Từ đó bắt đầu vai trò của Đông La Mã như là một trung tâm của sự giáo dục, thịnh vượng và văn hóa ở châu Âu. Constantinople vẫn là thủkinh đôthành của Đế quốc Byzantine trên hơn một ngàn năm, chỉ bị ngắt quãng tạm thời bởi sự đốt phá và chiếm đóng của quân [[Thập tự chinh]] lần 4 năm 1204, cho đến khi rơi vào tay [[Đế quốc Ottoman]] năm 1453 (hiện nay thành phố này là [[Istanbul]] của [[Thổ Nhĩ Kỳ]]).
 
Sau khi Constantine I qua đời, Đế chế lại bị chia ba bởi ba người con của ông. Tây La Mã bị chia đôi giữa con trưởng là [[Constantine II]] và con út là [[Constans]]. Đông La Mã cùng Constantinople thuộc về con thứ, [[Constantius II]]. Cuồi cùng thì Constantius II đánh bại được các anh em mình, thế nhưng tới năm 360 thì sự thống trị của ông lại bị lung lay. Trước đó ông đã phong cho [[Flavius Claudius Julianus|Julian]] (Flavius Claudius Julianus) làm Caesar ở Tây La Mã vào năm 355. Trong 5 năm sau đó, Julian giành nhiều thắng lợi trên chiến trường trước các tộc German, bao gồm cả người Alamanni. Khi Constantius hạ lệnh cho các quân đoàn xứ Gaul phải sang phía đông để tiếp viện cho cuộc chiến với Ba Tư, họ đã nổi dậy và tôn chỉ huy của mình là Julian lên làm Augustus. Vào lúc hai vị hoàng đế đều chưa muốn tiến quân đánh nhau thì Constantius đã qua đời vì bệnh vào tháng 11 năm 361, khiến đất nước tránh được một cuộc nội chiến.
Dòng 209:
 
===Sự phân chia cuối cùng của La Mã===
Valentinian II bị ám sát ở [[VienneVienna]] vào năm 392. Tướng [[Arbogast]] đưa [[Eugenius]] lên ngôi nhưng Theodosius không công nhận chuyệnvua này.<ref>Williams and Friell, p129.</ref> Sau đó thì ông giết sạch cả hai trong [[trận Frigidus]] (tháng 9 năm 394)<ref>Williams and Friell, p 134.</ref> rồi thống nhất Đế chế La Mã dưới quyền mình. Sau khi nắm quyền, Theodosius I Đại Đế thẳng tay bài trừ ngoại giáo<ref>[http://www.newadvent.org/cathen/14577d.htm "Theodosius I", Catholic Encyclopedia, 1912]</ref> và hoàn tất việc đưa Thiên chúa giáo trở thành quốc giáo của đế chế La Mã.<ref>Cf.decree, ''infra''.</ref> Sau này, [[Chính thống giáo Đông phương]] tôn ông thành Thánh Theodosius.
 
Theodosius I Đại Đế đi vào lịch sử như là vị hoàng đế cuối cùng thống trị một Đế chế La Mã nguyên vẹn. Sau cái chết của Theodosius vào năm 395, hai con trai của ông là [[Arcadius]] và [[Honorius]] chia nhau cai trị Đông La Mã (với thủđóng đô tại thành là Constantinople) và Tây La Mã (với thủđịnh đô tại [[Milan]], sau đó dời đô về [[Ravenna]]). Từ đây hai Đế chế La Mã hoạt động độc lập về mặt chính trị với các vị hoàng đế khác nhau.
 
==Sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã (395-476)==
[[Image:De Neuville - The Huns at the Battle of Chalons.jpg|left|260px|thumb|Các chiến binh Hung ở trận những cánh đồng Catalaunia.]]‎
[[Image:Sack of Rome by the Visigoths on 24 August 410 by JN Sylvestre 1890.jpg|210px|right|thumb|Tranh vẽ cuộc cướp phá thànhcố Romeđô La Mã vào năm 410.]]‎
Sau năm 395, các vị hoàng đế ở Tây La Mã hầu như chỉ còn là bù nhìn. Quyền hành thực sự rơi vào tay những người thống lĩnh quân đội như [[Stilicho]] (từ 395 tới 408), [[Constantius III|Constantius]] (từ 411 tới 421), [[Flavius Aetius|Aëtius]] (từ 433 tới 454) và [[Ricimer]] (từ 457 tới 472). Vốn ít tài nguyên hơn Đông La Mã, Tây La Mã cũng suy sụp nhanh chóng về mặt kinh tế, đi kèm với nó là sự cai trị thiếu hiệu quả ở các tỉnh vùng biên giới.
 
Ở bên ngoài, sự yếu kém của các quân đoàn La Mã đã dẫn tới những cuộc xâm lăng liên tục của các man tộc. Dưới áp lực của người Visigoth, hoàng đế Honorius phải dời đô từ [[Mediolanum]] (nay là Milan) về Ravenna, nơi có địa thế và khả năng phòng thủ tốt hơn.<ref>Bury, pg. 110</ref> Năm 410, người [[Visigoth]] do [[Alaric I]] dẫn đầu đã đánh chiếm và [[Cuộc cướp phá Romethành La Mã (410)|cướp phá thành RomeLa Mã]] (lần đầu tiên sau 800 năm, kể từ thế kỷ 4 TCN, Romekinh thành La Mã mới lại bị chiếm đóng bởi một quân đội ngoại lai). Sau đó, dưới thời các hậu duệ của Alaric, người Visigoth tới bán đảo Iberia và xây dựng một vương quốc cho riêng mình tồn tại 200 năm. Cũng cùng năm 410, quân La Mã rút khỏi đảo Anh, để mặc nơi đây trở thành tâm điểm cho những cuộc xâm lược của người [[Pict]] và [[Anglo-Saxon]] trong thế kỷ 5.<ref>cf. {{harvtxt|Dumville|1990}}</ref>
 
Mặc dù La Mã từng phải đối mặt với nhiều kẻ thù, nhưng có lẽ không thế lực nào hung hãn và đáng sợ hơn [[người Hung]]. Dưới sự chỉ huy của vua [[Attila]], người Hung đã nhiều lần vượt sông Danube cướp phá Đông La Mã, buộc các hoàng đế ở Constantinople phải cống nạp cho họ rất nhiều của cải. Năm 450, [[Honoria]], nguyên là chị gái của hoàng đế Tây La Mã [[Valentinian III]], tự ý gửi nhẫn đính hôn cho Attila. Ông ta đòi một nửa Tây La Mã làm của hồi môn, và khi bị từ chối, Attila đã lấy cớ này để dẫn quân tràn sang phía Tây.<ref>A modern narrative based these sources can be found in E.A. Thompson, ''The Huns'' (Oxford: Blackwell, 1996), pp. 144–48.</ref> Quân Hung tàn phá xứ Gaul, đe dọa chiếm cả Tây Âu và chỉ bị chặn lại sau [[trận những cánh đồng Catalaunia]] trước liên quân La Mã và Visigoth do tướng Aetius lãnh đạo. Trận chiến này được ghi nhận như một trong những trận chiến khốc liệt nhất trong lịch sử với những tổn thất thương vong ghê gớm cho cả hai bên.<ref>Gibbon, ''Decline and Fall'', volume II, p.285.</ref> Sang năm sau, Attila lại một lần nữa kéo quân vào Tây La Mã, lần này thì tấn công Italy và dự định tiến thẳng vào Romecố đô La Mã. Thế nhưng khi đã tiến tới gần Romethành La Mã thì Attila lại dừng lại và rút quân trở về. Nguyên do của việc này có thể là do sự kết hợp giữa dịch bệnh đang hoành hành trong nội bộ quân Hung, cuộc đàm phán của [[Giáo hoàng Lêô I|giáo hoàng Leo I]] và việc quân Đông La Mã tấn công vùng đất của ông ta từ phía sau.<ref>Hydatius, Chron Min. ii pp.26ff</ref> Mối nguy hiểm từ người Hung chỉ kết thúc sau cái chết của Attila vào năm 453.
 
Ở phía nam, [[người Vandal]] đánh chiếm [[Carthage]] vào năm 439 và xây dựng một hạm đội hùng mạnh để quấy nhiễu vùng biển phía Tây và Nam của [[Địa Trung Hải]]. Valentinian III giết Aetius vào năm 454 để rồi một năm sau ông cũng bị ám sát chết bởi những người ủng hộ viên tướng này. Người Vandal nhân cơ hội đó để tiến vào [[Cuộc cướp phá Rome (455)|cướp phá Rome]] (năm 455).