Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đinh Công Tráng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n thêm chi tiết
Dòng 8:
==Khởi nghĩa Ba Đình==
:''Bài chính:'' ''[[Khởi nghĩa Ba Đình]]''
[[Tháng 7]] năm [[1885]], sau khi kinh thành [[Huế]] thất thủ, tướng [[Tôn Thất Thuyết]] đưa vua [[Hàm Nghi]] lên [[thành Tân Sở|chiến khu Tân Sở]] ([[Quảng Trị]]) ban dụ [[Cần Vương]] kêu gọi toàn dân kháng chiến. Hưởng ứng, Đinh Công Tráng bèn cùng các đồng chí của mình đã chọn Ba Đình (trên vùng đất thuộc ba làng: Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mỹ Khê; cáchnay huyệnthuộc lỵxã Ba Đình, huyện [[Nga Sơn]], 4tỉnh [[kmThanh Hóa]]) làm căn cứ kháng chiến lâu dài.
 
[[Tháng 7]] năm [[1885]], sau khi kinh thành [[Huế]] thất thủ, tướng [[Tôn Thất Thuyết]] đưa vua [[Hàm Nghi]] lên [[thành Tân Sở|chiến khu Tân Sở]] ([[Quảng Trị]]) ban dụ [[Cần Vương]] kêu gọi toàn dân kháng chiến. Hưởng ứng, Đinh Công Tráng bèn cùng các đồng chí của mình đã chọn Ba Đình (trên vùng đất thuộc ba làng: Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mỹ Khê; cách huyện lỵ [[Nga Sơn]] 4 [[km]]) làm căn cứ kháng chiến lâu dài.
 
Từ đây, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao thông quang trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tải của đối phương đi lại trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết tâm đánh dẹp.
Hàng 19 ⟶ 18:
===Trận ngày 6 tháng 1 năm 1887 - 21 tháng 1 năm 1887===
Ngày 6 tháng 1 năm 1887, trungTrung tá Đôt lại cho quân tấn công đợt nữa, nhưng cũng không thành công, ông bèn cho quân rút ra xa, tổ chức bao vây và chờ viện binh.
Không thể để căn cứ Ba Đình tồn tại giữa vùng đồng bằng giáp ranh [[Thanh Hóa]] và [[Ninh Bình]], làm cản trở công cuộc thôn tính nước Việt, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Pháp quyết định:
Hàng 29 ⟶ 28:
-Đưa 4 pháo hạm và nhiều thuyền lớn đến yểm trợ và lo việc tiếp vận.
 
-Cử đạiĐại tá Brixô (Brissaud) làm tổng chỉ huy<ref> Số liệu này căn cứ ''Từ điển bách khoa Việt Nam'', mục từ: "Trận Ba Đình" [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=162DaWQ9MTg2MSZncm91cGlkPSZraW5kPXN0YXJ0JmtleXdvcmQ9dA==&page=49] và ''Việt sử tân biên'' tr. 127.</ref>.
 
Sau khi cắt đứt xong đường tiếp tế của nghĩa quân, Đại tá Brissaud liền cho quân tiến đánh căn cứ Ba Đình. Lần này, Brissaud vừa cho phun dầu đốt cháy các lũy [[tre]], vừa cho nã pháo tới tấp, biến căn cứ Ba Đình thành một biển lửa.
Hàng 35 ⟶ 34:
Trước sức mạnh của đối phương, đêm 20 rạng 21 [[tháng 1]] năm [[1887]], Đinh Công Tráng cho quân phá vòng vây, rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao.
Sáng ngày 21 [[tháng 1]] năm [[1887]], quân Pháp chiếm được cứ điểm Ba Đình. Sau khi ra sức tàn phá, họ còn bắt buộc triều đình [[nhà Nguyễn]] phải xóa tên ba làng trên bản đồ hành chính <ref> ''Lịch sử 11'' (nâng cao). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007, tr. 253.</ref>.
 
===Trận đồn Mã Cao===
Hàng 41 ⟶ 40:
 
==Hy sinh==
Về [[Nghệ An]], Đinh Công Tráng định gây lại phong trào, nhưng đến ngày 5 [[tháng 10]] năm 1887<ref>Ngày Đinh Công Tráng hy sinh chép theo ''[[Việt sử tân biên]]'' (Quyển 5, Tập Trung, tr. 137) và ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'' (tr. 812). Tuy nhiên, ''Từ điển bách khoa Việt Nam'' chép là ngày 7 [[tháng 9]] năm 1887. (tr. 157). Cũng theo ''Việt sử tân biên'' (đã dẫn) thì: Bị lý trưởng làng Tăng Yên tố cáo với Thiếu tá Coste, trưởng đồn [[Đô Lương]], nên Đinh Công Tráng mới bị giết chết (tr. 136). Sách ''Hỏi đáp Lịch sử Việt namNam'' (tậpTập 4) ghi là lý trưởng làng Chính An (NXB Trẻ, 2007, tr. 274).</ref> thì ông đã hy sinh trong một trận chiến đấu với đối phương tại làng Tang Yên, huyện [[Đô Lương]], tỉnh [[Nghệ An]].
==Nhận xét==
Tướng Pháp tên là Mason nhận định về Đinh Công Tráng như sau:
:''(Ông) là người có trật tự, trọng kỷ luật, cương trực, hay nghiêm trị những thủ hạ quấy nhiễu dân; có chí nhẫn nại, biết mình, biết người, không bao giờ hành binh cẩu thả, giỏi lập trận thế''<ref> Dẫn lại theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', tr. 157.</ref>.
 
Đề cập đến sự thất bại của ông, nhóm tác giả sách ''Đại cương lịch sử Việt Nam'' cho rằng:
:''Thất bại của ông bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, mà trực tiếp là do chiến thuật phòng ngự bị động, với việc lập chiến tuyến cố thủ tại một vùng đồng chiêm trũng, địa bàn chật hẹp, dễ dàng bị cô lập khi bị đối phương bao vây hoặc tấn công. Đây được coi là điển hình của lối đánh chuyến tuyến cố định''<ref>Lược theo ''Đại cương lịch sử Việt Nam' (tậpTập 2), tr. 77.</ref>.
 
== Chú thích ==
{{reflist}}
 
==Sách tham khảo==
*Nhiều người soạn, ''Từ điển bách khoa Việt Nam'' (tậpTập 1). Hà Nội, 1995.
*[[Phạm Văn Sơn]], [[Việt sử tân biên]] (quyểnQuyển 5, tậpTập trungTrung). Tác giả tự xuất bản, [[Sài Gòn]]. 1963.
*Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, ''Đại cương lịch sử Việt Nam'' (tậpTập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2006.
*Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, [[Hà Nội]], 1992.
*Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, ''Lịch sử Việt Nam ([[1858]]-cuối [[thế kỷ 19|XIX]])'', Quyển 3, Tập 1, Phần 2. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.
== Chú thích ==
{{reflist}}
 
==Liên kết ngoài==