Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trịnh Khắc Tang”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 26:
Năm [[Vĩnh Lịch (Nam Minh)|Vĩnh Lịch]] thứ 28 ([[1674]]) Trịnh Kinh tây chinh, [[Trần Vĩnh Hoa]] làm Tổng chế Đông Ninh, ở lại phòng thủ [[Đài Loan]]. [[Tháng 4]] năm Vĩnh Lịch thứ 33 ([[1679]]) Trần Vĩnh Hoa biểu thị thỉnh cầu cho Khắc Tang làm [[Giám quốc]], Trịnh Kinh đồng ý, phái lễ quan [[Trịnh Bân]] mang chỉ dụ đến Đài Loan, lập Trịnh Khắc Tang làm Giám quốc, lại sai người khắc con dấu Giám quốc thế tôn,<ref>Hạ Lâm, ''Mân hải kỷ yếu'', trang 61</ref> giao cho Khắc Tang phê duyệt công văn, mọi việc cha giao cho ông đều chấp hành nghiêm ngặt, rất giống phong cách của [[Trịnh Thành Công]]. Thêm vào đó ông còn là con rể của Trần Vĩnh Hoa, công việc phán quyết cả thảy đều nhận được sự dạy dỗ của Trần Vĩnh Hoa, dù cho vi phạm pháp luật của tông thất họ Trịnh, ông rất hiếm khi tha thứ,<ref>Uất Vĩnh Hòa, ''Trần liệt phụ truyện'' và ''Tỳ hải ký du'', trang 53</ref> vì thế mà bị các em Trịnh Kinh và [[Phùng Tích Phạm]] căm ghét.
Năm Vĩnh Lịch thứ 34 ([[1680]]), Trịnh Kinh rút về Đài Loan, mọi việc chính sự đều giao cho Trịnh Khắc Tang xử lý, việc phê duyệt công văn vẫn tiếp tục như cũ. [[Tháng 1|Tháng Giêng]] năm Vĩnh Lịch thứ 35 ([[1681]]), Trịnh Kinh tạ thế, trước khi qua đời đã trao ấn kiếm cho con trưởng Trịnh Khắc Tang, ủy thác lại cho bộ tướng [[Lưu Quốc Hiên]]: "''tài cán con ta, rất có hy vọng, ngươi hãy phò tá lấy nó,
[[Miếu Duyên Bình Quận vương]] ở [[Đài Nam]] hiện nay có treo [[câu đối]] nhằm tưởng nhớ vợ chồng Trịnh Khắc Tang, câu đối ghi: "''Chồng chết vợ cũng mất, vua mất [[Nhà Minh|Minh]] cũng mất theo''".
|