Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khúc Thừa Dụ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 29:
 
==Sự nghiệp==
Nước Việt thời bấy giờ bị chính quyền [[nhà Đường-]] nướcTrung TàuQuốc đô hộ, năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Đường chia đất [[Giao Châu]] ra làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm
tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.<ref>Việt Nam sử lược, Nhà xuấtXuất bản Tân Việt, 1968, tr. 70, 71.</ref>
 
Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở nước Việt, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở [[Hải Dương]]). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng cử ông làm [[Tiết Độđộ Sứsứ]] để cai trị Giao Châu. Nhà Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũngnên thuận cho ông ấy làm Tĩnh Hải Tiết Độđộ Sứsứ và gia phong Đồng Bìnhbình Chương Sựsự. Năm sau nhà Đường mất ngôi (907), nhà Hậu Lương lên thay, phong cho [[Lưu Ẩn]] làm Nam Bình Vương, kiêm chức [[Tiết Độđộ Sứsứ]] Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu.<ref>Việt Nam sử lược, Nhà xuấtXuất bản Tân Việt, 1968, tr. 70, 71.</ref>
Nước Việt thời bấy giờ bị chính quyền nhà Đường- nước Tàu đô hộ, năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm
tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.<ref>Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71</ref>
 
''Việt sử thông giám cương mục'' (Tiền biên, quyển 5) viết: "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. [[Khúc Thừa Dụ]] tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là [[Tiết độ sứ]]...".
Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở nước Việt, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng cử ông làm Tiết Độ Sứ để cai trị Giao Châu. Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ và gia phong Đồng Bình Chương Sự. Năm sau nhà Đường mất ngôi (907), nhà Hậu Lương lên thay, phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết Độ Sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu.<ref>Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71</ref>
 
Khúc Thừa Dụ dựng đô ở La Thành, làm cho dân yên, nước trị. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Ngày [[7 tháng 2]] năm [[906]], vua Đường phong thêm cho [[Tĩnh Hải quân]] Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là [[Khúc Hạo]] chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Ngày [[23 tháng 7]] năm [[907]], Khúc Thừa Dụ mất. Con ông là [[Khúc Hạo]] lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng sử gia Lê Tung viết trong sách Việt giám thôngThông khảo tổng luận gọi Khúc Thừa Dụ là ''Khúc Tiên chúa''.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuấtXuất bản khoaKhoa học xã hội, 1998, tập 1, tr. 121.</ref>
''Việt sử thông giám cương mục'' (Tiền biên, quyển 5) viết: "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ...".
 
Khúc Thừa Dụ dựng đô ở La Thành, làm cho dân yên, nước trị. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Ngày [[7 tháng 2]] năm [[906]], vua Đường phong thêm cho [[Tĩnh Hải quân]] Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Ngày [[23 tháng 7]] năm [[907]], Khúc Thừa Dụ mất. Con ông là [[Khúc Hạo]] lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng sử gia Lê Tung viết trong sách Việt giám thông khảo tổng luận gọi Khúc Thừa Dụ là ''Khúc Tiên chúa''.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, tr 121</ref>
 
==Tham khảo==