Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
{{Thông tin nhân vật hoàng gia|tên=Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu|tên gốc=孝哲毅皇后|hình=《孝哲毅皇后朝服像》.jpg|cỡ hình=300px|chức vị=[[Hoàng hậu]] [[nhà Thanh|Đại Thanh]]|tại vị=[[3 tháng 2]] năm [[1872]]<br>– [[5 tháng 12]] năm [[1875]]|đăng quang=[[14 tháng 9]] năm [[1872]]|tiền nhiệm=[[Từ An Thái hậu|<font color = "grey">Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu</font>]]|kế nhiệm=[[Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu|<font color="blue">Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu</font>]]|phối ngẫu=[[Thanh Mục Tông]]<br>Đồng Trị Hoàng đế|cha=[[Sùng Khởi]]|mẹ=Ái Tân Giác La thị|tước hiệu=<font color = "blue">Gia Thuận Hoàng hậu</font><br>(嘉顺皇后)|thụy hiệu=<font color = "grey">Hiếu Triết Gia Thuận Thục Thận Hiền Minh Cung Đoan Hiến Thiên Chương Thánh Nghị Hoàng hậu</font> <br>(孝哲嘉順淑愼賢明恭端憲天彰聖毅皇后)|hoàng tộc=[[A Lỗ Đặc thị]] (khai sinh)<br>[[Ái Tân Giác La]] (hôn nhân)|sinh={{ngày sinh|1854|7|25}}|nơi sinh=|mất={{ngày mất và tuổi|1875|3|27|1854|7|25}}|nơi mất=[[Trữ Tú cung]], [[Tử Cấm Thành]]|ngày an táng=[[26 tháng 3]] năm [[1879]]|nơi an táng=[[Huệ lăng]] (惠陵), [[Thanh Đông lăng]], [[Tuân Hóa]]|tước vị=[[Đồng Trị Đế]] [[Hoàng hậu]]}}
| tên = Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu
| tên gốc = 孝哲毅皇后
| hình = 《孝哲毅皇后朝服像》.jpg
| cỡ hình = 300px
| chức vị = [[Hoàng hậu]] [[nhà Thanh|Đại Thanh]]
| tại vị = [[3 tháng 2]] năm [[1872]]<br>– [[5 tháng 12]] năm [[1875]]
| đăng quang = [[14 tháng 9]] năm [[1872]]
| tiền nhiệm = [[Từ An Thái hậu|<font color = "grey">Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu</font>]]
| kế nhiệm = [[Hiếu Định Cảnh hoàng hậu|<font color="blue">Hiếu Định Cảnh hoàng hậu</font>]]
| phối ngẫu = [[Thanh Mục Tông]]<br>Đồng Trị hoàng đế
| cha = [[Sùng Khởi]]
| mẹ = Ái Tân Giác La thị
| tước hiệu = <font color = "blue">Gia Thuận hoàng hậu</font><br>(嘉顺皇后)
| thụy hiệu = <font color = "grey">Hiếu Triết Gia Thuận Thục Thận Hiền Minh Cung Đoan Hiến Thiên Chương Thánh Nghị hoàng hậu</font> <br>(孝哲嘉順淑愼賢明恭端憲天彰聖毅皇后)
| hoàng tộc = [[A Lỗ Đặc thị]] (khai sinh)<br>[[Ái Tân Giác La]] (hôn nhân)
| sinh = {{ngày sinh|1854|7|25}}
| nơi sinh =
| mất = {{ngày mất và tuổi|1875|3|27|1854|7|25}}
| nơi mất = [[Trữ Tú cung]], [[Tử Cấm Thành]]
| ngày an táng = [[26 tháng 3]] năm [[1879]]
| nơi an táng = [[Huệ lăng]] (惠陵), [[Thanh Đông lăng]], [[Tuân Hóa]]
| tước vị = [[Đồng Trị Đế]] [[Hoàng hậu]]
}}
 
'''Hiếu Triết Nghị Hoànghoàng hậu''' ([[chữ Hán]]: 孝哲毅皇后; {{lang-mnc|ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠ<br> ᠰᡠᠯᡨᡠᠩᡤᠠ<br> ᡶᡳᠯᡳᠩᡤᠠ<br> ᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ|v=hiyoošungga sultungga filingga hūwangheo|a=hiyouxungga sultungga filingga hvwangheu}}; [[25 tháng 7]], năm [[1854]] - [[27 tháng 3]], năm [[1875]]), là vị [[Hoàng hậu]] duy nhất của [[Thanh Mục Tông]] Đồng Trị Hoànghoàng đế.
 
Bà là một trong 4 vị hoàng hậu Đại Thanh xuất thân từ [[Mông Cổ]] bênh cạnh [[Hiếu Đoan Văn hoàng hậu|Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu]], [[Phế hậu Tĩnh phi]] và [[Hiếu Huệ Chương hoàng hậu|Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu]], không xét các trường hợp truy phong như [[Hiếu Trang Văn hoàng hậu|Hiếu Trang Văn Hoàng hậu]] và [[Khang Từ Hoàng thái hậu|Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu]]. Ngoài ra, bà cũng là một trong 4 vị Hoàng hậu duy nhất của nhà Thanh được hưởng quy chế lễ đại hôn khi thành thân với Hoàng đế, bên cạnh Phế hậu Tĩnh phi, [[Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu]] và [[Long Dụ Hoàng thái hậu|Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu]].
 
== Gia đình ==
[[Tập tin:《孝哲毅皇后朝服像》局部.jpg|thumb|trái|180px|Hiếu Triết Hoànghoàng hậu A Lỗ Đặc thị.]]
 
Hiếu Triết Nghị Hoànghoàng hậu sinh ngày [[1 tháng 7]] (âm lịch) năm Hàm Phong thứ 4 (1854), xuất thân từ gia tộc [[A Lỗ Đặc thị]] (阿魯特氏), thuộc [[Mãn Châu]] [[Bát kỳ|Tương Hoàng kỳ]], nhưng vốn là [[Mông Cổ]] Chính Lam kỳ, địa vị xã hội trong Đại Thanh tương đối không cao lắm.
 
Thủy tổ tên [[Bá Nhĩ Đặc Y]] (伯尔特依), từ đó xuống 5 đời đều là bạch thân, tức là thường dân học vụ không có quan chức gì cả. Đến đời thứ 7, có vị tên [[Cảnh Huy]] (景辉) ở năm Gia Khánh thứ 7 khảo ''Phiên dịch [[Cử nhân]]'', làm quan đến Tứ phẩm, từ đó đem gia tộc liệt vào hàng quan hoạn nhân gia. Cảnh Huy có hai con trai, đều thi đậu Phiên dịch Cử nhân, cụ thể là hai đợt Phiên dịch giải nguyên Gia Khánh năm thứ 21 và Đạo Quang năm thứ 5, vì thế đem gia tộc vào hạng Khoa cử thế gia. Đặc biệt là người anh [[Tái Thượng A]] (赛尚阿). Tái Thượng A vào năm Gia Khánh năm thứ 21 thi đậu, chọn ''Bút thiếp chức nhập sĩ'', vào thời Đạo Quang thăng làm [[Thị lang]], [[Thượng thư]], nhập [[Quân cơ xứ]].
 
Tái Thượng A ở [[Chiếnchiến tranh nha phiến]] lần thứ nhất, được coi trọng, trao cho chức ''Hiệp bạnBạn Đại học sĩ'' (协办大学士), thuộc hàng trọng yếu đại thần khi đấy. Năm đầu Hàm Phong, thăng ''Văn Hoa điện Đại học sĩ'' (文华殿大学士), [[Quân cơ Đại thần]], vân mệnh trấn áp quân [[Thái Bình Thiên Quốc]]. Tuy nhiên, ông binh bại trở về, Hoàng đế giận dữ cách chức.
 
Năm Hàm Phong thứ 10, lại đem Tái Thượng A gọi lại vào triều, phong làm ''Phó Đô thống'', tuy nhiên nhậm chức không lâu thì ông phải về dưỡng bệnh, năm đầu Quang Tự thì qua đời. Ông có nhiều con, con trưởng là [[Sùng Tự]] (崇绪) nhậm ''Vân Huy sứ'', con trai thứ [[Sùng Hi]] (崇熙) sau chết ở quốc nạn. Thân phụ Hiếu Triết Hoànghoàng hậu là [[Sùng Khởi]] (崇绮), con thứ ba của Tái Thượng A, vốn khảo Cử nhân nhận Lục phẩm Chủ sự, sau vì vụ của Tái Thượng A mà bị miễn quan. Ông đóng cửa đọc sách, sau khảo thi [[Trạng nguyên]], trở thành Trạng nguyên duy nhất thuộc Bát kỳ trúng tuyển, nhậm ''Hàn lâm viện Thị giảng'', nhà ở gần [[An Định môn]]. Sùng Khởi có 3 vợ cả lẽ, chính thất là mẹ đẻ của Hiếu Triết Hoànghoàng hậu, Ái Tân Giác La thị, biểu tỷ của [[Từ An Thái hậu]], con gái của Trịnh Thânthân vương [[Đoan Hoa]] (端華) và Nữu Hỗ Lộc thị, cô mẫu của Từ An Thái hậu. Kế thất là con gái của Lý vương phủ Thành Thủ úy [[Tái Diệu]] (载耀), và thứ ba là Qua Nhĩ Giai thị, đường tỷ của [[Vinh Lộc]].
 
Gia đình bà tổng cộng năm con gái và một con trai, con trai duy nhất tên [[Bảo Sơ]] (葆初), còn Hiếu Triết Hoànghoàng hậu là con gái thứ 3 trong nhà. Em gái út của bà về sau tham gia Bát Kỳ tuyển tú, được chỉ hôn cho Huệ Kính Quậnquận vương [[Dịch Tường]] (奕详) làm Kếkế Phúcphúc tấn. Ngoài ra, bà còn có đường muội được chỉ hôn cho Đôn Thânthân vương phủ Bối lặc [[Tái Liêm]] (载濂), tổ phụ của [[Dục Nham]] (毓嵒). Có thể thấy, gia đình bà tuy gốc gác không cao nhưng có liên hôn với hoàng thất, truyền thống thi cử, nên có thể thấy bà lớn lên ở môi trường học vấn cao độ.
 
== Hoàng hậu Đại Thanh ==
Năm Đồng Trị thứ 11 ([[1872]]), ngày [[14 tháng 9]], lấy Đôn Thânthân vương [[Dịch Thông]] làm Chính sứ, Bối lặc [[Dịch Khuông]] làm Phó sứ, tuyên bố sách tuyên A Lỗ Đặc thị nhập cung thành hôn. Ngày [[15 tháng 9]], Tử khắc, nhập cung làm lễ [[hợp cẩn]] đại hôn, chính thức tuyên sách lập Hoàng hậu<ref>[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=413120&remap=gb 《清实录同治朝实录》]: ○御太和殿受贺。王以下文武大臣官员蒙古王贝勒贝子暨朝鲜使臣等行礼。礼成。颁诏天下。诏曰。朕惟图开紫极。坤顺与乾健同功。曜合丹宸。月恒与日升并著。粤稽往牒。备溯前型。瞻戴星轩。表度于媓规娀矩。弼成风化。徵祥于姒幄娥台。惟嘉德之匡襄。教行壼掖。斯休和之翔被。颂洽家邦。朕敬绍丕基。诞膺景运。兹者慈安皇太后慈禧皇太后特遴贤淑。俾正宫廷。钦遵懿旨。谨昭告天地宗庙。于同治十一年九月十四日。册立翰林院侍讲崇绮之女阿鲁特氏为皇后。同勤尊养。趋萱殿而祝蕃厘。勉嗣徽音。式椒闱而敷内政。庆成嘉礼。覃洽恩施。所有事宜。开列于后。一、亲王福晋以下至奉恩将军妻室等俱加恩赐。一。民公侯伯以下二品大臣以上命妇俱加恩赐。一、各直省民欠钱粮。由户部酌核奏请蠲免。一、八旗绿营兵丁。赏给一月钱粮。一、文武会试中额。俟该部临期奏明人数。请旨酌量加广。文武乡试。由该部分别大中小省分。并满蒙汉字号。奏请加额。一、各直省儒学。无论府州县卫。俱于本年以正贡作恩贡。次贡作岁贡。一、八旗满洲蒙古汉军妇人年七十以上者。照例分别赏赉。一、内务府三旗妇人年七十以上者。照例分别赏赉。一、各省老妇有孤贫残疾无人养赡</ref>.
 
Sách tuyên rằng:
Hàng 37 ⟶ 60:
Theo cách người Thanh ghi lại, việc A Lỗ Đặc thị chọn làm Hoàng hậu là đã dự trù từ sớm. Có hai nguyên nhân chủ yếu:
* Nguyên nhân thứ nhất là Sùng Khởi vốn là Trạng nguyên. Mà theo cách nói của dân gian, Hoàng hậu có thân phận làm Trạng nguyên là một điều rất lý tưởng. Ghi chép đương thời khi A Lỗ Đặc thị tuyển tú nhập cung, nhiều người nhận định tất sẽ trở thành Hoàng hậu. Vốn là con nhà khoa bảng, sự thông tuệ văn chương lễ nghĩa của A Lỗ Đặc thị đã sớm truyền khắp kinh thành.
* Nguyên nhân thứ hai, là do xuất thân của bà. Mẹ đẻ của bà là con gái của Trịnh Thânthân vương [[Đoan Hoa]], một trong ''Cố mệnh Bát đại thần'' do [[Thanh Văn Tông]] đích thân chỉ định. Dù Đoan Hoa bị Từ An Thái hậu và [[Từ Hi Thái hậu]] ban chết trong chính biến Tân Dậu, song chính thê của Đoan Hoa - Nữu Hỗ Lộc thị là cô mẫu của Từ An Thái hậu. Do đó, A Lỗ Đặc thị là cháu gọi Từ An Thái hậu là dì mẫu.
 
Khoảng đầu ngày [[3 tháng 2]], khi tiến hành tuyển tú, Từ An Thái hậu là người đề bạt và đưa A Lỗ Đặc thị dự vào đợt tuyển. Trong khi đó, Từ Hi Thái hậu là người rất ghét Đoan Hoa, quyết liệt chọn con gái của [[Phượng Tú]] thuộc dòng dõi Phú Sát thị danh môn, đối chọi với Từ An Thái hậu rất gay gắt. Cụ thể quá trình này, trước mắt vẫn không có hồ sơ công khai minh bạch, nhưng cuối cùng Đồng Trị Đế vẫn chọn A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu, và điều này khiến Từ Hi Thái hậu rất không vui.
Hàng 43 ⟶ 66:
Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị nhập cung vào [[tháng 9]] năm Đồng Trị thứ 11 ([[1872]]), sống trong Tử Cấm Thành đến khi Đồng Trị Đế băng hà vào ngày [[5 tháng 12]] năm Đồng Trị thứ 13 ([[1874]]), sinh hoạt trong cung tầm 3 năm.
 
Theo nhiều cách nói từ dã sử truyền miệng, A Lỗ Đặc Hoànghoàng hậu có cuộc sống cung đình không mấy vui vẻ, đặc biệt là mối quan hệ với Từ Hi Thái hậu được cho là cực kém. Nếu việc tuyển tú xảy ra, đúng là có mâu thuẫn giữa Lưỡng cung Thái hậu, thì A Lỗ Đặc Hoànghoàng hậu trong tình thế đó bị kẹp giữa 2 vị Thái hậu, phi thường áp lực đè nén. Tuy không hề có bất kì cứ liệu nào nói đến mối bất hòa giữa Hoàng hậu và Từ Hi Thái hậu, song sự truyền miệng của người Bát kỳ đều nhắc đến vấn đề mẹ chồng nàng dâu này. Trong đó, chuyện dã sử được nhắc đến nhiều nhất là việc A Lỗ Đặc Hoànghoàng hậu từng nói:''"Tây Thái hậu xuất thân chỉ là một phi tần, nhập cung qua cửa bên. Còn ta là Trung cung Hoàng hậu, được kiệu vào cung qua Đại Thanh môn với lễ đại hôn theo đúng di huấn của tổ tiên"''.
 
Tuy nhiên, câu nói này cũng xuất hiện trong truyền khẩu là do Đôn Thânthân vương [[Dịch Thông]] nói với Từ Hi Thái hậu. Đôn Thânthân vương Dịch Thông nổi tiếng ngay thẳng, không hề để tâm ai có thích lời nói của ông hay không. Khi đó Từ Hi Thái hậu phàn nàn việc Hoàng hậu không nghe lời quản giáo, muốn phế bỏ, Đôn Thânthân vương liền nói: ''"Muốn phế người đi từ Đại Thanh môn vào, thì phải do người đi vào từ Đại Thanh môn quyết định"''. Giải thích một chút, quy chế Đại Thanh nghiêm ngặt, Hoàng hậu được cử hành đại hôn đi từ cổng chính Đại Thanh môn vào, là chủ nhân chân chính của hậu cung, còn phi tần phải đi cửa bên cạnh thành để vào. Ý của Đôn Thânthân vương là Từ Hi Thái hậu vốn chỉ là phi thiếp, không có tư cách phế truất Hoàng hậu do Hoànghoàng gia tuyển lựa.
 
Qua những câu chuyện trên, dù ít nhiều đúng sai thì có lẽ quả thực mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu này có khả năng rất mâu thuẫn. Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị xuất thân khoa bảng thế gia, tính cách cương liệt nềnền nếp, cộng thêm tính cách của Từ Hi Thái hậu, thì tuy những câu chuyện trên chỉ là truyền miệng, song thực tế có lẽ thật sự giữa 2 người có mâu thuẫn tương đương.
 
== Qua đời ==
=== Quá trình ===
Năm Đồng Trị thứ 13 ([[1874]]), ngày [[5 tháng 12]] (âm lịch), tức ngày [[12 tháng 1]] dương lịch năm [[1875]], Đồng Trị Đế băng hà, Từ An Thái hậu và Từ Hi Thái hậu đưa [[Thanh Đức Tông]] Quang Tự Hoànghoàng đế kế vị. Do Quang Tự Đế ngang hàng với Đồng Trị Đế, nên A Lỗ Đặc thị lúc này chỉ có thể xưng là Hoàng hậu mà không phải là [[Hoàng thái hậu]]. Để phân biệt với Hoàng hậu tương lai, Quang Tự Đế đặc biệt dâng tôn hiệu cho A Lỗ Đặc thị là '''Gia Thuận Hoànghoàng hậu''' (嘉顺皇后).
 
Ngày [[20 tháng 2]] (âm lịch) cùng năm, hơn 74 ngày sau khi Đồng Trị Đế băng, Gia Thuận Hoànghoàng hậu cũng tạ thế vào giờ Dần tại [[Trữ Tú cung]], thọ 21 tuổi, tạm quàn ở [[Long Phúc tự]]. Sử chép Hoàng hậu qua đời sau bạo bệnh, nhưng có thuyết cho rằng bà đã tuyệt thực đến chết hoặc bị Từ Hi Thái hậu ban rượu độc. Tuy hai người thực sự có thể có mâu thuẫn, song với tình thế Đại Thanh cung đình nghiêm ngặt, Từ Hi Thái hậu khó có khả năng chỉ vì vậy mà giết Gia Thuận Hoànghoàng hậu, mà có khả năng rằng bà tự sát.
 
Đầu tiên cứ [[Thanh thật lục]] - ''Đức Tông thật lục'' ghi lại:
* Ngày 20 [[tháng giêng]], tầm 1 tuần sau khi Đồng Trị Đế băng, Quang Tự Đế đăng cơ ở [[Điện Thái Hòa (Bắc Kinh)|Thái Hòa điện]], đến trước Lưỡng cung Thái hậu hành lễ, lại đến Trữ Tú cung, trước mặt Gia Thuận Hoànghoàng hậu hành lễ.
* Ngày [[18 tháng 2]], Đế hầu Từ An Đoan Dụ Khang Khánh Hoànghoàng thái hậu, Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Hoànghoàng thái hậu đến Trữ Tú cung, thăm bệnh Gia Thuận Hoànghoàng hậu.
* Ngày [[19 tháng 2]], Đế hầu Từ An Đoan Dụ Khang Khánh Hoànghoàng thái hậu, Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Hoànghoàng thái hậu đến Trữ Tú cung, thăm bệnh Gia Thuận Hoànghoàng hậu. Thân khắc, hầu Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Hoànghoàng thái hậu thăm bệnh Gia Thuận Hoànghoàng hậu.
* Ngày [[20 tháng 2]], giờ Dần, Gia Thuận Hoànghoàng hậu băng, tại Trữ Tú cung.
 
=== Nguyên nhân cái chết ===
Cái chết của bà về sau được thêu dệt rất nhiều, nổi tiếng nhất là việc bà bị chính Từ Hi Thái hậu giết hại. Tuy nhiên, khả năng này hoàn toàn không thể xảy ra, và một số lý giải được đưa ra:
* Thứ nhất, có thuyết cho rằng Từ Hi Thái hậu là người cuối cùng đến thăm Gia Thuận Hoànghoàng hậu, vì vậy hạ độc thủ ra tay. Tuy nhiên, cứ theo Thật lục, ngày 18 tháng ấy, Gia Thuận Hoànghoàng hậu bệnh tình đã có vẻ trầm trọng, đến nỗi phải mời Lưỡng cung Thái hậu đến thăm. Dù sang giờ Thân ngày hôm sau, Từ An Thái hậu chưa đi, song Quang Tự Đế hầu Từ Hi Thái hậu đến thăm được ghi chép rất tỉ mỉ, chứng tỏ nội đình đi theo ghi lại rất nghiêm ngặt. Khó mà có chuyện hạ độc thủ.
* Thứ hai, có thuyết Từ Hi Thái hậu bức bách, bỏ đói Gia Thuận Hoànghoàng hậu cho đến chết. Loại thuyết này khó có khả năng, vì khi ấy Từ An Thái hậu còn sống, thì Từ Hi Thái hậu không thể có hành vi lỗ mãng. Bên cạnh đó, Gia Thuận Hoànghoàng hậu chỉ là Hoàng tẩu Hoàng hậu, danh phận đã định, vị trí của Hoàng hậu không thể làm bất lợi vị trí quyền lực của Từ Hi Thái hậu.
* Thứ ba, có thuyết nói Đồng Trị Đế còn tại thế, Gia Thuận Hoànghoàng hậu đã mang long chủng, Từ Hi Thái hậu không đợi được bèn bức tử Hoàng hậu. Loại thuyết này càng không có cơ sở, vì Thanh đình quy định nghiêm ngặt, với hệ thống ghi chép tỉ mỉ, một cung phi mang thai hay sẩy thai đều biết và ghi lại, nói chi đến một Hoàng hậu quốc mẫu cả một đại quốc.
* Thứ tư, lấy theo góc độ Nho gia, Gia Thuận Hoànghoàng hậu cảm thấy tương lai bi quan vì không có hậu tự, Quang Tự Đế nhập cung, thì bà trở thành Hoàng tẩu, mất đi hoàn toàn vị thế chính trị, do vậy u uất mà chết. Cũng nhìn theo góc độ Nho gia, gia đình bà khoa bảng nhiều đời, bên cạnh đó gia đình bà cũng có truyền thống tuẫn tiết (cô tổ mẫu từng tuẫn tiết), nên có lẽ đức hạnh ''Tiết phụ'' hẳn đã ăn sâu vào tâm trí cùng nhận thức của bà, dẫn đến khả năng bà tự sát vì tuẫn tiết theo chồng.
 
Theo nhật ký của [[Ông Đồng Hòa]], Gia Thuận Hoànghoàng hậu khi đó quả thật đã có tật bệnh, lại tương đối trầm trọng và diễn ra khá lâu.
 
== Hậu sự ==
Sau khi Gia Thuận Hoànghoàng hậu qua đời, Lưỡng cung Thái hậu dựa theo quy tắc, ban [[thụy hiệu]] cho Đại Hành Gia Thuận Hoànghoàng hậu.
 
Năm Quang Tự nguyên niên ([[1875]]), [[tháng 5]], Quang Tự Đế thân đến [[Thái Hòa môn]] ngự chầu, tuyên thụy hiệu của Gia Thuận Hoànghoàng hậu đầy đủ là '''Hiếu Triết Gia Thuận Thục Thận Hiền Minh Hiến Thiên Chương Thánh Nghị Hoànghoàng hậu''' (孝哲嘉順淑愼賢明憲天彰聖毅皇后)<ref>[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=607602&remap=gb 《清实录光绪朝实录》]: ○戊申。上诣太和门。恭阅大行嘉顺皇后尊谥。册。宝。行礼毕。诣观德殿穆宗毅皇帝几筵永思殿。恭候册。宝。至。诣大行嘉顺皇后几筵前行礼。恭献册。宝册文曰。臣闻紫宸齐体。离功。彤管扬芬。坤顺表安贞之德。奉明禋而有恪。令范如存。熙鸿号于无穷。崇仪告备。钦惟大后。性成孝敬。德著温恭。毓瑞高闳。文定重伣天之表。来嫔京室。含章徵应地之符。配皇极以礼肃。奉宸仪而班政。兰掖型垂。愉婉承颜。笃两宫之孝养。仁慈逮下。遇九卿以宽和。俭勤追宫庭式化。恺悌赞垂裳之治。海㝢腾欢。方期福履永绥。颂星轩之润饰。何意坤仪云邈遐升。路隔层霄。悲深率土。缅怀令则。长炳耀于寰区。宜受大名备钦崇之典礼。谨奉册。宝。曰。孝哲嘉顺淑慎贤明宪天彰圣毅皇后。于戏。勒瑶函而纪实。硕德丕昭。荐玉策以申虔。阐扬观不远。陟降在兹。宝籙常新。与球图而并重。隆名永协。耀金石而流徽。宏启嘉符。茂昌景祚</ref>. Cùng năm [[tháng 11]], đưa thần vị phụng an [[Phụng Tiên điện]].
 
Sách thụy văn viết:
{{Cquote|[[File:《孝哲毅皇后朝服像》局部 2.jpg|thumb|trái|210px|Hiếu Triết Nghị Hoànghoàng hậu triều phục]]
 
{{Cquote|[[File:《孝哲毅皇后朝服像》局部 2.jpg|thumb|trái|210px|Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu triều phục]]
臣闻紫宸齐体。离功。彤管扬芬。坤顺表安贞之德。奉明禋而有恪。令范如存。熙鸿号于无穷。崇仪告备。钦惟大后。性成孝敬。德著温恭。毓瑞高闳。文定重伣天之表。来嫔京室。含章徵应地之符。配皇极以礼肃。奉宸仪而班政。兰掖型垂。愉婉承颜。笃两宫之孝养。仁慈逮下。遇九卿以宽和。俭勤追宫庭式化。恺悌赞垂裳之治。海㝢腾欢。方期福履永绥。颂星轩之润饰。何意坤仪云邈遐升。路隔层霄。悲深率土。缅怀令则。长炳耀于寰区。宜受大名备钦崇之典礼。谨奉册。宝。曰。孝哲嘉顺淑慎贤明宪天彰圣毅皇后。于戏。勒瑶函而纪实。硕德丕昭。荐玉策以申虔。阐扬观不远。陟降在兹。宝籙常新。与球图而并重。隆名永协。耀金石而流徽。宏启嘉符。茂昌景祚
 
Hàng 90 ⟶ 112:
Khâm duy Đại hậu, tính thành hiếu kính. Đức trứ ôn cung. Dục thụy cao hoành. Văn định trọng 伣 thiên chi biểu. Lai tần kinh thất. Hàm chương trưng ứng địa chi phù. Phối hoàng cực dĩ lễ túc. Phụng thần nghi nhi ban chính. Lan dịch hình thùy. Du uyển thừa nhan. Đốc lưỡng cung chi hiếu dưỡng. Nhân từ đãi hạ. Ngộ cửu khanh dĩ khoan hòa. Kiệm cần truy cung đình thức hóa. Khải đễ tán thùy thường chi trị. Hải 㝢 đằng hoan. Phương kỳ phúc lí vĩnh tuy. Tụng tinh hiên chi nhuận sức. Hà ý khôn nghi vân mạc hà thăng. Lộ cách tằng tiêu. Bi thâm suất thổ. Miến hoài lệnh tắc. Trường bỉnh diệu vu hoàn khu.
 
Nghi thụ đại danh bị khâm sùng chi điển lễ, cẩn phụng sách, bảo, viết: '''Hiếu Triết Gia Thuận Thục Thận Hiền Minh Hiến Thiên Chương Thánh Nghị Hoànghoàng hậu'''.
 
Vu hí! Lặc dao hàm nhi kỷ thật. Thạc đức phi chiêu. Tiến ngọc sách dĩ thân kiền. Xiển dương quan bất viễn. Trắc hàng tại tư. Bảo lục thường tân. Dữ cầu đồ nhi tịnh trọng. Long danh vĩnh hiệp. Diệu kim thạch nhi lưu huy. Hoành khải gia phù. Mậu xương cảnh tộ.|||Sách thụy văn Hiếu Triết Nghị hoàng hậu}}
 
Năm Quang Tự thứ 2 ([[1876]]), [[tháng 5]], Ngự sử [[Phạm Đôn Nghiễm]] (潘敦俨) thượng tấu, trong đó nói đến hiện tại quốc nội khí hậu khô hạn, là bởi vì thụy hiệu của Hiếu Triết Nghị Hoànghoàng hậu có vấn đề, thỉnh cầu sửa đổi thụy hiệu, lại có đoạn nói ''"Sau khi Mục Tông băng 100 ngày, đường phố đồn đãi (Hoàng hậu) nào là bi thương thành bệnh, nào là tuyệt thực vẫn sinh. Sự tình không minh bạch, dùng cái gì an ủi vong linh ở trên trời? Làm sao để khiến dân chúng không còn hoang mang?"''. Theo ý của Phạm Đôn Nghiễm, Hiếu Triết Nghị Hoànghoàng hậu là tự sát vì tiết nghĩa, nên theo dân gian treo một biển khen thưởng, như thế mới có ''"mưa thuận gió hòa"''. Lưỡng cung Thái hậu nghe thế cả kinh, bèn phê duyệt đại khái nói:''"Lịch triều ban thụy hiệu, đều theo quy tắc có từ trước. Kính cẩn cử hành. Hiếu Triết Nghị Hoànghoàng hậu đã có thụy hiệu, há chỉ nghe lời không đâu mà sửa đổi? Ngự sử nhận xét chủ quan, nghe theo lời trên phố phường mà thượng tấu, thật sự hồ đồ. PhạmPhan Đôn Nghiễm giao bộ nghiêm gia nghị sử"''. Cuối cùng ông ta bị cách chức.
 
Khi Hiếu Triết Nghị Hoànghoàng hậu qua đời, triều đình vừa chọn xong ngày lành tháng tốt dựng lăng cho Đồng Trị Đế, vì vậy bà cùng Đồng Trị Đế đều tạm quàng ở [[Long Phúc tự]] thuộc [[Thanh Đông lăng]]. Năm Quang Tự nguyên niên ([[1875]]), ngày [[18 tháng 9]], Quang Tự Đế hộ tống Từ Hi Thái hậu đích thân đưa tử cung của Đế - Hậu đến Long Phúc tự.
 
Năm Quang Tự thứ 5 ([[1879]]), ngày [[21 tháng 3]], Quang Tự Đế đích thân hộ tống Lưỡng cung Thái hậu từ kinh sư khải loan, tham gia Phụng an đại điển, đưa Đế - Hậu nhập táng. Ngày [[26 tháng 3]], Gia Thuận Hoànghoàng hậu hợp táng cùng Đồng Trị Đế vào [[Huệ lăng]] (惠陵), quách của bà ở phía bên trái (hướng Đông) của Đồng Trị Đế. Ngày hôm đó, có [[Thục Thận Hoàng quý phi|Đôn Nghi Hoànghoàng quý phi Phú Sát thị]], [[Kính Ý Hoàng quý phi|Du phi Hách Xá Lý thị]], [[Trang Hòa Hoàng quý phi|Tuần phi A Lỗ Đặc thị]] và [[Đôn Huệ hoàng quý phi|Tấn tần Tây Lâm Giác La thị]] là những người cuối cùng vào quyết biệt Đế - Hậu trong địa cung.
 
Năm Quang Tự thứ 26 ([[1900]]), khi Liênliên quân 8 nước tấn công Bắc Kinh buộc Hoànghoàng tộc phải bỏ trốn, Từ Hi Thái hậu ra lệnh cho phụ thân của cố Hoàng hậu là Sùng Khởi ở lại trấn giữ kinh thành. Cả nhà Sùng Khởi đã tự sát sau khi Bắc Kinh thất thủ<ref>Thán sử cảo, chương 255</ref>.
 
Năm Quang Tự thứ 34 ([[1908]]), [[tháng 12]], Tuyên Thống Đế [[Phổ Nghi]] kế vị, dâng thêm thụy hiệu cho Hiếu Triết Nghị Hoànghoàng hậu hai chữ '''Cung Đoan''', thụy hiệu đầy đủ là: '''Hiếu Triết Gia Thuận Thục Thận Hiền Minh Cung Đoan Hiến Thiên Chương Thánh Nghị Hoànghoàng hậu''' (孝哲嘉順淑愼賢明恭端憲天彰聖毅皇后).
 
==Trong văn hóa đại chúng==