Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Nguyên Trừng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: thứ 3 của → thứ ba của using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 7:
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| chức vị = [[Thừa tướng|Tả tướngTướng quốc]] [[Đại Ngu]]
| tại vị = [[1400]] - [[1407]]
| đăng quang =
Dòng 19:
| tên đầy đủ = '''Tự''': Mạnh Nguyên (孟源)<br>'''Hiệu''': Nam Ông (南翁)
| kiểu tên = Tên khác
| tước hiệu = Vệ vương (衞王)<br>Vệ quốc đạiĐại vương (衛國大王)
| tước vị đầy đủ =
| thụy hiệu =
Dòng 32:
| nơi an táng = [[Nam An Hà]], [[Bắc Kinh]], [[Trung Quốc]]
}}
'''Hồ Nguyên Trừng''' ([[chữ Hán]]: 胡元澄, [[1374]] - [[1446]]), [[biểu tự]] '''Mạnh Nguyên''' (孟源), hiệu '''Nam Ông''' (南翁), sau đổi tên thành '''Lê Trừng'''<ref>eoffGeoff Wade, translator, ''Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource'', Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, <nowiki>http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/xuan-de/year-1-month-3-day-17-1</nowiki>, accessed January 23, 2017.</ref> là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia [[Đại Ngu]], con trưởng của vua [[Hồ Quý Ly]] và là anh vua [[Hồ Hán Thương]]. Ông làm tể tướng triều Hồ, có nhiều đóng góp về khoa học quân sự và là chỉ huy chính của quân đội Việt trong kháng chiến chống Minh ([[1406]]-7[[1407]]).
 
Cuối thời [[nhà Trần|Trần]], Hồ Quý Ly làm phụPhụ chính thái[[Thái]], nắm mọi việc trong triều, Nguyên Trừng nhận chức [[Tư đồ]]. Sau khi [[nhà Hồ]] thành lập, ông nhận chức [[Thừa tướng|Tả tướngTướng quốc]], cùng với chú là Hữu tướngTướng quốc Hồ Quý Tỳ đứng hàng [[tểTể tướng]]. Cuối năm 1406, [[nhà Minh|đế quốc Minh]] xâm lược [[Đại Ngu]], vua Hồ Hán Thương sai Tả tướngTướng quốc Trừng cầm quân chống lại. ''[[Đại Việt Sử ký Toàn thư]]'', bộ quốc sử [[Đại Việt]] thời [[nhà Hậu Lê|Lê]] kể Hồ Nguyên Trừng đã trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh lớn như trận Lãnh Kinh ([[1406]]), trận phòng thủ [[Đa Bang]], cùng các trận phản công sông Lô và cửa Hàm Tử ([[1407]]). Trừ trận Lãnh Kinh là thắng lợi khó nhọc của quân Đại Ngu, các trận đánh do Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đều thất bại. Tháng 5 âm lịch năm [[1407]], Hồ Nguyên Trừng bị bắt về Trung Quốc cùng với thượngThượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương, hữuHữu tướngTướng quốc Hồ Quý Tỳ. Về sau, ông được [[nhà Minh]] sung vào [[bộ Công|Công bộ]] làm quan, được nhà Minh gọi là '''Hỏa khí chi thần''' (火器之神)<ref name="kyluc.vn">[http://kyluc.vn/s100/412.ho-nguyen-trung-ong-to-cua-nghe-duc-sung-than-cong-viet-nam.html Hồ Nguyên Trừng (Ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam), http://kyluc.vn]</ref>. Ngoài ra ông còn là [[nhà văn]] [[Việt Nam]] ở [[thế kỷ 15]], với tác phẩm tự kể ''[[Nam Ông mộng lục]]''.
 
==Sự nghiệp ban đầu==