Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dịch Khuông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n replaced: thứ 2 của → thứ hai của, thứ 5 của → thứ năm của, tháng Giêng năm → tháng 1 năm using AWB
Dòng 8:
 
== Thời Hoàng đế Quang Tự ==
Tháng 3 (âm lịch) năm Quang Tự thứ 10 (1884), Dịch Khuông được giao Chưởng quản Tổng lý các Quốc sự vụ nha môn, thường được gọi tắt là Tổng lý Nha môn (總理衙門), một cơ quan phụ trách công tác ngoại giao của nhà Thanh. Tháng 10 (âm lịch) cùng năm, ông được gia tước Khánh Quận vương (慶郡王).
 
Tháng 9 (âm lịch) năm Quang Tự thứ 11 (1885), ông được giao nhiệm vụ cùng Thuần Thân vương [[Dịch Hoàn]] làm Biện lý Hải quân sự vụ, một chức vụ giám sát các vấn đề hàng hải và hải quân. Tháng 2 (âm lịch) năm Quang Tự thứ 12 (1886), ông được nhậm mệnh Nội đình Hành tẩu, giữ đặc quyền vào triều thượng tấu trực tiếp cho Hoàng đế.
 
Vào tháng Giêng1 năm Quang Tự thứ 15 (1889), ông thụ chức Hữu Tông chính (右宗正), một chức vụ đảm trách phán xử trong Hoàng tộc. Khi Hoàng đế [[Quang Tự]] đại hôn, cưới Hoàng hậu Long Dụ vào năm 1889, ông được ban Tứ đoạn Chánh long bổ phục (một loại áo thụng lễ phục chỉ dùng cho Hoàng thất). Con trai trưởng của ông là [[Tái Chấn|Tải Chấn]] cũng được phong thưởng. Năm Quang Tự thứ 20 (1894), trong lễ mừng thọ 60 tuổi của [[Từ Hy Thái hậu|Từ Hi Thái hậu]], bà ra chỉ phong Dịch Khuông lên tước Thân vương, thế tập tước vị Khánh Thân vương của ông nội. Năm Quang Tự thứ 24 (1898), ông được phong "Thế tập võng thế" Thân vương, trở thành vị [[Thiết mạo tử vương]] thứ 12 và cũng là cuối cùng của nhà Thanh.
 
Khoảng tháng 10 năm 1894, trong cuộc [[Chiến tranh Thanh-Nhật|Chiến tranh Thanh - Nhật lần thứ nhất]], Dịch Khuông được bổ nhiệm vào vị trí Hải quân Đại thần, Tổng lý Nha môn, và các chiến dịch hoạt động chiến tranh, sau này trở thành một Tổng tư lệnh gần như chung chung.
 
Dịch Khuông đã tham gia vào việc "bán" các vị trí chính thức, trong đó một người có thể có được một bài đăng chính thức thông qua đề nghị của hoàng tử bằng cách trả cho ông ta một khoản tiền nhất định. Ông ta trở thành "người tiên phong" cho các giao dịch phòng ngự trong chính trị.
 
Trong cuộc nổi loạn Boxer từ 1899 đến 1901, Dịch Khuông thông cảm hơn đối với người nước ngoài trong khi Zaiyi (Hoàng tử Duẩn) đứng về phía Boxers chống lại người nước ngoài. Hai phe phái được hình thành trong triều đì Nhà Thanh - một trong số đó bao gồm một số chính trị gia nước ngoài "trung bình", kể cả Dịch Khuông, trong khi một phe ngoại giao khác do Zaiyi đứng đầu. Tuy nhiên, Dịch Khuông bị mất uy tín vì tư thế ngoại quốc của mình khi một lực lượng quân sự đa quốc gia tiến vào Bắc Kinh trong chuyến thám hiểm Seymour năm 1900. Ông ngay lập tức bị thay thế bởi "phản động" Zaiyi làm lãnh đạo của Zongli Yamen (Bộ ngoại giao). Lực lượng hoàng gia và võ sĩ quyền Anh, hành động dưới quyền chỉ huy của Zaiyi, đã đánh bại chuyến thám hiểm đầu tiên của Seymour. Dịch Khuông thậm chí còn viết thư cho người nước ngoài, mời họ đến nơi trú ẩn trong Zongli Yamen trong Cuộc vây hãm Quốc tế, khi những người đàn ông của Zaiyi bao vây Khu phố Legation Bắc Kinh. Một vị tướng ngoại quốc khác, Ronglu, đề nghị cung cấp hộ tống cho người nước ngoài khi binh sĩ của ông được cho là sẽ giết người nước ngoài. Lực lượng của Dịch Khuông và Zaiyi đụng độ nhiều lần. Dịch Khuông ra lệnh cho Bannermen của mình tấn công Boxers và Kansu Braves.
 
Dịch Khuông sau đó được gửi bởi Từ Hy thái hậu cùng với Lý Hồng Chương, để thương lượng với Liên minh Tám quốc sau khi họ xâm lược Bắc Kinh năm 1901. Dịch Khuông và Lý Hồng Chương đã ký Nghị định thư Boxer vào ngày 7 tháng 9 năm 1901. Trong hội nghị, Dịch Khuông được xem như là một đại diện trong khi các cuộc đàm phán thực tế được thực hiện bởi Lý Hồng Chương. Trở về Bắc Kinh như một thành viên cao cấp của triều đình, Dịch Khuông kiên trì theo những cách cũ của mình, và bị khinh thường bởi không chỉ các nhà cải cách, mà còn bởi các quan chức tòa án trung bình.
Dòng 46:
 
* Tải Chấn (載振), con trai cả của Dịch Khuông.
* Tải Bác (載 搏), con trai thứ 2hai của Dịch Khuông.
* Con trai thứ 3, chưa được đặt tên, chết sớm.
* Con trai thứ 4, chưa được đặt tên, chết sớm.
* Tải Luân (載 倫), con trai thứ 5năm của Dịch Khuông. Ông kết hôn với con gái của Sun Baoqi, trong khi con gái của ông kết hôn với con trai của em trai của Empress Dowse Cixi, Guixiang (桂祥).
* Con trai thứ 6, chưa được đặt tên, chết sớm.
* 12 con gái.