Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Pq (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Pq (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Zheng_He_map.jpg|nhỏ|400px|phải|Tấm bản đồ thế giới này được một số người coi là sao chép lại công trình do Trịnh Hòa thực hiện. Niên đại khoa học của nó sẽ được hoàn thành trong năm 2006]]
[[Thành viên:Pq/Sao|Sao]]
{{Có chứa chữ viết Trung Quốc}}
[[Tập tin:Chu_Han_-_chu_Nho_-_Han_tu.png|130px|nhỏ|phải|Ba tên của chữ Hán trong Tiếng Việt: chữ Hán, chữ Nho, Hán tự.]]
'''Chữ Hán''' ({{hn|ch=𡨸漢}}, {{zho|c=漢字|sim=汉字|hanviet=Hán tự}}), hay còn gọi là '''chữ Nho''', '''Chữ Trung Quốc''', là một dạng chữ viết biểu ý của [[tiếng Trung Quốc]]. Chữ [[Trung Quốc]] có nguồn gốc bản địa, sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm [[Triều Tiên]], [[Nhật Bản]] và [[Việt Nam]]. Tại các quốc gia này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở từng nước.
 
'''Trịnh Hòa''' ([[phồn thể]]: 鄭和; [[giản thể]]: 郑和; Hán ngữ bính âm: '''Zhèng Hé'''; [[Wade-Giles]]: ''Cheng Ho''), tên khai sinh: '''Mã Tam Bảo''' (馬三寶 /马三宝; [[pinyin]]: ''Mǎ Sānbǎo'' tên [[Ả Rập]]: ''Hajji Mahmud Shams''), [[1371]]–[[1433]], là nhà hàng hải và nhà thám hiểm người [[Trung Quốc]] nổi tiếng nhất. Ông chính là người đã chỉ huy các chuyến thám hiểm được gọi chung là các chuyến đi của "Thái giám Tam Bảo hạ tây dương" (三保太監下西洋) hay "Trịnh Hòa đến đại dương phía tây" từ năm [[1405]] đến năm [[1433]]. Tạp chí ''Life Magazine'' xếp Trịnh Hòa đứng thứ [[Danh sách những người quan trọng nhất của Tạp chí Life|14 trong số những người quan trọng nhất]] trong [[thiên niên kỷ]] vừa qua. Ông là [[người Hồi]].
== Sơ lược ==
Truyền thuyết cho rằng [[Hoàng Đế]] là người sáng tạo ra văn tự [[Trung Hoa]] từ 4-5 ngàn năm trước nhưng ngày nay không còn ai tin rằng Hoàng Đế là nhân vật có thực nữa. Cả thuyết ''[[Thương Hiệt]] cho chữ'' mà các học giả [[thời Chiến Quốc]] đưa ra cũng không thuyết phục vì không ai biết Thương Hiệt ở đời nào. Gần đây người ta đào được ở [[An Dương (thành phố Trung Quốc)|An Dương]] ([[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]]) nhiều mu rùa, xương loài vật, và đồ đồng trên đó có khắc chữ, và các nhà khảo cổ phỏng đoán rằng chữ viết ở Trung Hoa ra đời muộn nhất là vào thời kỳ [[nhà Thương]], khoảng 1800 năm [[trước Công nguyên]].
 
== Tiểu sử ==
[[Tập tin:Map-Chinese Characters.png|330px|nhỏ|Những quốc gia và vùng lãnh thổ chịu ảnh hưởng của chữ Hán ([[Vòng văn hóa chữ Hán]]).<br />Xanh lục đậm: chữ Hán phồn thể được dùng chính thức ({{Flagicon|Taiwan}} [[Trung Hoa Dân Quốc]], {{Flagicon|MAC}} [[Ma Cao]], {{Flagicon|HKG}} [[Hồng Kông]])<br />Xanh lục: chữ Hán giản thể được dùng chính thức nhưng chữ Hán phồn thể vẫn thông dụng ({{Flagicon|SIN}} [[Singapore]], {{Flagicon|MAS}} [[Mã Lai]])<br />Xanh lá mạ: chữ Hán giản thể được dùng chính thức ({{Flagicon|CHN}} [[CHND Trung Hoa]]) <br />Xanh lục nhạt: được sử dụng song song với hệ chữ viết khác trong cùng ngôn ngữ ({{Flagicon|KOR}} [[Hàn Quốc]] và {{Flagicon|JPN}} [[Nhật Bản]])<br />Vàng: trước đây đã từng được dùng chính thức nhưng nay không dùng nữa ({{Flagicon|MGL}} [[Mông Cổ]], {{Flagicon|PRK}} [[CHDCND Triều Tiên]] và {{Flagicon|VIE}} [[Việt Nam]])<br />]]
<!-- [[Hình:Zhenghepainting.jpg|nhỏ|phải|200px|Trịnh Hòa trong quan phục.]] -->
Cũng như [[Ai Cập]] và nhiều dân tộc văn minh thời thượng cổ, chữ viết Trung Hoa thời đó là những hình biểu ý, nghĩa là vẽ phác vật mình muốn chỉ. Chẳng hạn như:
* Muốn chỉ Mặt Trời, Trung Hoa vẽ [[Tập tin:chutuonghinh_mattroi.jpg]] (Ai Cập cũng tương tự), sau thành chữ 日;
* Muốn chỉ Mặt Trăng, Trung Hoa vẽ [[Tập tin:chutuonghinh_mattrang1.jpg]] (Ai Cập vẽ [[Tập tin:Chutuonghinh_mattrang2.jpg]]), sau thành chữ 月;
* Muốn chỉ dòng nước, Trung Hoa vẽ [[Tập tin:chutuong_hinhnuoc.jpg]], Xuyên/ Sông;
* Muốn chỉ khu ruộng, Trung Hoa vẽ [[Tập tin:Chutuonghinhdien.jpg]], sau thành chữ 田;
* Muốn chỉ cây cối, Trung Hoa vẽ [[Tập tin:Chutuonghinh moc.jpg]], sau thành chữ 木;
* Muốn chỉ cái miệng, Trung Hoa vẽ [[Tập tin:Chutuonghinh khau.jpg]] (Ai Cập cũng vẽ [[Tập tin:chutuonghinh_khau2.jpg]]), sau thành chữ 口.
 
Trịnh Hòa là một [[người Hồi]] và phục vụ bên cạnh hoàng đế thứ ba của [[nhà Minh]] - [[Minh Thành Tổ]] (trị vì từ [[1403]] đến [[1424]]). Theo tiểu sử của ông trong [[Minh sử]], ông có tên thật là Mã Tam Bảo (馬 三保) và quê ở [[Côn Dương]] (昆阳, ngày nay là [[Tấn Ninh]] (晋宁)), tỉnh [[Vân Nam]]. Trịnh Hòa thuộc về đẳng cấp [[Semur]] và theo [[Hồi giáo]]. Ông là hậu duệ đời thứ 6 của [[Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar]], một viên quan cai trị tỉnh Vân Nam thời [[nhà Nguyên]] và đến từ [[Bukhara]], ngày nay thuộc [[Uzbekistan]]. Họ "Mã" của ông có từ người con thứ năm của Shams al-Din là Masuh. Cả ông nội và cha của ông, Charameddin và Mir Tekin, đều đã [[hành hương]] tới thánh địa [[Mecca]], và một điều không còn nghi ngờ là ông đã được nghe ông và cha mình kể lại các câu chuyện về các chuyến đi tới những vùng đất lạ. Sau khi quân đội nhà Minh chiếm đóng Vân Nam, ông đã bị bắt giữ khi còn là một cậu bé con và bị hoạn, vì thế ông đã trở thành một [[thái giám]] phục vụ cho hoàng đế. Tên gọi ''Trịnh Hòa'' do vua Minh Thành Tổ đặt cho ông để thưởng công giúp đảo chính lật đổ vua [[Minh Huệ Đế]]. Ông học tại [[Nam Kinh Thái học]].
Đó là vào thời kỳ đầu, đến giai đoạn tiếp theo thì chữ cũng tượng hình mà thêm tính cách biểu ý như
* [[Tập tin:chutuonghinh_mattroi.jpg]]-nhật: cả tiếng Trung Hoa lẫn tiếng cổ Ai Cập đều có nghĩa là ngày;
* [[Tập tin:chutuonghinh_mattrang1.jpg]]-nguyệt: tiếng Trung Hoa thêm nghĩa chỉ tháng; tiếng Ai Cập cũng dùng cách này để chỉ tháng: vẽ một mặt trăng, nhưng thêm một ngôi sao: [[Tập tin:chutuonghinh_sao.jpg]].
 
Các sứ mệnh của ông đã chỉ ra một minh chứng đầy ấn tượng về khả năng tổ chức và sức mạnh công nghệ, nhưng đã không dẫn tới các hoạt động thương mại đáng kể, vì Trịnh Hòa là một quan chức và người chỉ huy của thủy quân chứ không phải là một nhà buôn. Có những lời đồn cho rằng ông cao ít nhất 2 mét (7 ft).
Qua giai đoạn sau, mỗi hình ở Ai Cập chỉ một vần, như [[Tập tin:chutuonghinh_khau2.jpg]] chỉ cái miệng, nhưng miệng người Ai Cập thời xưa đọc là ''ra'' (hay ''re''), cho nên vần đó chỉ thêm vần ''ra'' (hay ''re''). Giai đoạn cuối, mỗi hình (gọi là dấu cũng được) chỉ một âm như hình [[Tập tin:chutuonghinh_khau2.jpg]] không chỉ vần ''ra'' (hay ''re'') nữa mà chỉ phụ âm ''r''. Từ đó, chữ viết [[cổ Ai Cập]] không còn là [[chữ tượng hình]] mà hình thành [[chữ tượng thanh]] - cũng gọi là ký âm - như các chữ của phương Tây: [[bảng kí tự Hy Lạp|Hy Lạp]], [[bảng kí tự Latinh|La Mã]],...
 
Trịnh Hòa vượt biển tới [[Vương quốc Hồi giáo Malacca|Malacca]] vào [[thế kỷ 15]]. Vào giữa thế kỷ 15, công chúa Trung Hoa là [[Hán Lệ Bảo]] được gả cho quốc vương Malacca, vua Mansur Shah. Công chúa đi cùng với đoàn tùy tùng của mình - gồm 500 con trai của các quan và vài trăm cung nữ. Đoàn người này cuối cùng định cư tại [[Bukit Cina]] ở [[Malacca]]. Hậu duệ của những người này, sinh ra từ các cuộc hôn nhân với dân bản xứ, ngày nay được biết đến như là những người Peranak: [[Peranaka|Baba]] (tước hiệu của đàn ông) và Nyonya (tước hiệu của đàn bà). (MP)
Chữ Trung Hoa, trái lại, ngừng ở giai đoạn hai, không dùng hình để chỉ vần, ghi âm, mà dùng thêm nhiều cách khác để tạo chữ mới như [[hội ý]], [[giả tá]], [[chuyển chú]]... Tóm lại, chữ viết vẫn giữ tính chất tượng hình mà không thành tượng thanh, mặc dầu có sử dụng phép [[hài thanh]]: dùng thanh âm của một chữ để ghi thanh âm của một chữ khác. Ví dụ dùng chữ thành (成), là nên, để ghi âm chữ thành (城) là ''thành lũy'' và chữ thành (誠) là ''thành thực''; như vậy hai chữ thành 城 và 誠, mỗi chữ gồm hai phần - một phần ghi âm (thành 成), một phần ghi ý. Như chữ thành (城) bao gồm thổ (土) là đất (vì thành làm bằng đất) và ngôn (言) là lời (lời nói thành thật).
 
Năm [[1424]] Minh Thành Tổ chết. Người kế nghiệp là hoàng đế [[Minh Nhân Tông]] (trị vì từ năm 1424 đến năm [[1425]]), đã quyết định hạn chế ảnh hưởng của nội cung. Trịnh Hòa cũng đã thực hiện một chuyến đi nữa dưới thời trị vì của [[Minh Tuyên Tông]] (trị vì từ năm [[1426]] đến năm [[1435]]), nhưng sau đó những chuyến tàu đi tìm của cải của người Trung Quốc đã chấm dứt.
== Đặc điểm ==
=== Bất lợi ===
[[Tập tin:龜-bw.png|500px|nhỏ|phải|Cách viết chữ '''quy''' (龜)]]
[[Tập tin:九-order.gif|frame|Cách viết chữ '''cửu''' (九)]]
* Thời gian học dài: Người học chữ Trung Quốc phải có nhiều (hai ba năm) mới nhớ được mặt chữ của ba bốn ngàn từ thường dùng; nếu dùng lối tượng thanh thì nhanh và đơn giản hơn.<ref>{{Chú thích web | url = http://www.box.net/shared/8uamnukso8| title = Tự học 500 chữ Hán thông dụng| accessdate = [[17 tháng 12]]| accessyear = 2009}}</ref>
* Chữ viết phức tạp, nhiều nét: có những chữ trên hai mươi lăm nét.
* In sách báo tốn công vì rất rắc rối, phải sắp gần một vạn chữ vì không thể dùng ba bốn chục ký tự mẫu và dấu như các chữ lối tượng thanh.
* Không đánh được tín hiệu: phải dùng khoảng 8.000 dấu hiệu (''code''), mỗi dấu hiệu thay cho một chữ.
 
=== LợiCác chuyến đi ===
[[Tập tin:KangnidoMap.jpg|nhỏ|phải|300px|[[Cương lí đồ]] (1402) trước các chuyến đi của Trịnh Hòa, và nó cho thấy ông đã có thông tin rất chi tiết về địa lý của [[Cựu Thế giới]] một cách tổng thể, từ châu Âu và châu Phi ở phía tây tới Triều Tiên, Nhật Bản ở phía đông]]
{{trung lập}}
Cái lợi của chữ Trung Hoa cũng hiển nhiên:
* Khi nhớ mặt chữ của một từ thì người học rất khó quên được ý nghĩa của nó, chẳng hạn chữ an (安) gồm nữ (女 đàn bà) ở dưới miên (宀 mái nhà) nên có nghĩa là an (an ổn), hoặc chữ minh (明) gồm nhật (日 mặt trời) và nguyệt (月 mặt trăng) nên có nghĩa là sáng. Như vậy mỗi từ của Trung Hoa có tính chất sống động hơn từ của phương Tây và vì vậy đọc một bài thơ Trung Hoa viết bằng chữ Trung Hoa thì cảm thấy có ý nghĩa hơn, thú vị hơn khi đọc cũng bài thơ đó phiên âm ra chữ quốc ngữ. Cái thú còn tăng thêm gấp bội nếu ta thưởng thức được nét bút của người viết, và ai cũng nhận ra môn "thư họa" (vẽ chữ) của Trung Hoa là bước đầu của môn hoạ, người Trung Hoa nào viết chữ đẹp cũng được xem giống như một hoạ sĩ.
* Lợi ích lớn nhất cho dân tộc Trung Hoa là nhờ lối chữ tượng hình mà họ nhanh chóng thống nhất được đất nước, dễ giữ được đế quốc của họ, vượt được hết nhiều dị biệt của các thổ ngữ, những hàng rào ngôn ngữ. Họ có rất nhiều thổ ngữ, nếu dùng một thứ chữ tượng thanh, như tự mẫu La Tinh chẳng hạn, thì người [[Bắc Kinh]] không sao hiểu được người [[Vân Nam]], người [[Tứ Xuyên]] không sao hiểu được người [[Sơn Đông]]..., mà nước của họ đã bị chia thành nhiều tiểu quốc, dân tộc rồi, như châu Âu có người [[Ý]], [[Pháp]], [[Đức]], [[Anh]], [[Bồ Đào Nha]], [[Tây Ban Nha]]...
* Cũng nhờ lối chữ đặc biệt này mà rất nhiều Hoa kiều ở khắp thế giới từ [[Đông Nam Á]] tới [[Âu Châu]], [[Mỹ Châu]], dù sinh sống ở quốc gia nào và sử dụng ngôn ngữ của dân tộc khác nhưng vẫn giữ được nền văn hóa cổ, vẫn giữ được phong tục, truyền thống và dùng bút đàm mà hiểu được nhau.<ref>{{Chú thích web | url = http://www.box.net/shared/zk9wp7qas4| title = Tài liệu học du Hán căn bản| accessdate = [[14 tháng 1]]| accessyear = 2010}}</ref>
 
"Tây dương" chỉ những khu vực ở [[châu Á]] và [[châu Phi]] mà Trịnh Hòa đã thám hiểm, bao gồm:
== Chữ Hán ở các nước ==
* [[Đông Nam Á]]
=== Trung Quốc ===
* [[Sumatra]]
Chữ Hán bắt nguồn từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vật xung quanh và vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được cho là loại chữ Giáp Cốt (Giáp Cốt Tự 甲骨字), chữ viết xuất hiện vào đời [[nhà Ân]] (殷) vào khoảng thời 1600-1020 trước Công Nguyên. Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên các mảnh xương thú vật và có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được.
* [[Java (đảo)|Java]]
* [[Tích Lan]] (Ceylon)
* [[Ấn Độ]]
* Có thể là [[châu Mỹ]]
* [[Iran|Ba Tư]]
* [[Vịnh Ba Tư]]
* [[Bán đảo Ả Rập]],
* [[Hồng Hải]] tới xa nhất là [[Ai Cập]] và
* xa nhất về phía nam tới [[eo biển Mozambique]]
* [[Đài Loan]], 7 lần
* [[Đảo Darwin]], Bắc [[Úc]]
 
Số lượng chuyến đi của ông tới Tây dương tùy vào cách phân chia, nhưng ông và hạm đội đã "Tây dương" không dưới 7 lần. Ông đã đưa về Trung Quốc nhiều chiến lợi phẩm và các phái viên từ ít nhất 30 vương quốc - bao gồm cả vua [[Alagonakkara]] của Tích Lan (Ceylon) đến Trung Quốc để tạ lỗi các hoàng đế Trung Hoa.
Chữ Giáp Cốt tiếp tục được phát triển qua các thời:
* [[Nhà Chu]] 周 (1021-256 TCN) có chữ Kim (Kim Văn 金文), là chữ viết trên các chuông bằng [[Đồng (nguyên tố)|đồng]] và [[kim loại]]
* [[Chiến Quốc]] 戰國 (403-221 TCN) và thời [[nhà Tần]] 泰 (221-206 TCN) có chữ Triện (Đại Triện và Tiểu Triện) và có chữ Lệ (Lệ Thư 隸書)
* [[Nhà Hán]] 漢 (Tiền Hán 206 TCN-[[8]] CN, Hậu Hán [[25]]-[[220]]) có chữ Khải (Khải Thư 楷書)
 
Một số suy đoán rằng hạm đội của Trịnh Hòa có thể đã vượt qua [[mũi Hảo Vọng]]. Cụ thể, một tu sĩ và một nhà lập bản đồ người [[Venezia]] là [[Fra Mauro]] đã miêu tả trong [[bản đồ Fra Mauro]] năm [[1457]] các chuyến đi của các con "thuyền lớn từ Ấn Độ" tới 2.000 dặm vào [[Đại Tây Dương]] năm [[1420]].
Chữ Khải còn có thể được chia thành chữ Hành (Hành Thư 行書) và chữ Thảo (Thảo Thư 草書). Chữ Khải là loại chữ được dùng bút lông chấm mực tàu viết trên giấy và rất gần với hình dáng chữ Hán ngày nay vẫn còn được dùng ở [[Nhật]], [[Đài Loan]] hay [[Hồng Kông]]. Chữ Thảo là loại chữ được viết bằng bút lông có lược bớt hoặc ghép một số nét lại. Sự phát triển chữ Hán trải qua các thời kỳ có thể được minh họa bằng một số chữ sau:
 
Bản thân Trịnh Hòa viết về các chuyến đi của mình như sau:
Chữ Giáp Cốt → Chữ Kim → Chữ Triện → Chữ Lệ → Chữ Khải → Chữ Thư
:"Chúng tôi đã vượt qua hơn 100.000 [[lí (đơn vị đo lường Trung Quốc)|lí]] (50.000 [[km]]) các vùng nước mênh mông và ngắm nhìn thấy trên đại dương các con sóng khổng lồ tương tự như các trái núi sừng sững ở phía chân trời, và chúng tôi đã ngắm nhìn các khu vực hoang dã ẩn xa trong làn sương khói màu xanh lam, trong khi các con thuyền của chúng tôi, kiêu ngạo giương cánh buồm giống như các đám mây ngày và đêm, vẫn tiếp tục cuộc hành trình của chúng (rất nhanh) giống như các vì sao, vượt qua các con sóng hung dữ này như thể là chúng tôi đang đi trên một con đường lớn..."
 
=== Bảy chuyến đi ===
Ngày nay chữ Hán ở Trung Quốc đã có xu thế được giản lược đơn giản hơn và ở Trung Quốc còn sử dụng hai loại chữ: chữ [[Chính thể]] (正體字) và chữ [[Giản thể]] (簡體字).
{| class="wikitable"
|-
! Chuyến !! Ngày đi !! Ngày về || Số người
|-
| 1 || 11 tháng 7 năm 1405 || 2 tháng 10 năm 1407 || 27.800
|-
| 2 || 13 tháng 10 năm 1407 || 1409 || 27.000
|-
| 3 || Tháng 10 năm 1409 || 6 tháng 7 năm 1411 ||
|-
| 4 || Tháng 11 năm 1413 || 12 tháng 8 năm 1415 || 27.670
|-
| 5 || Tháng 6 năm 1417|| 8 tháng 8 năm 1419 ||
|-
| 6 || 3 tháng 3 năm 1421 || 2 tháng 9 năm 1422 ||
|-
| 7 || Tháng 1 năm 1431 || 1433 || 27.550
|}
 
<div style="font-size: smaller">
=== Ở bán đảo Triều Tiên ===
Ghi chú:
Hán ngữ được du nhập vào bán đảo [[Triều Tiên]] khá lâu, khoảng [[thời kỳ đồ sắt]]. Đến thế kỷ thứ 4 trước công nguyên xuất hiện các văn bản viết tay của [[người Triều Tiên]]. Các bản viết tay này được sử dụng chữ Hán. Tiếng Hán là thứ ngôn ngữ khó, dùng chữ Hán để viết [[tiếng Triều Tiên]] trở nên phức tạp, cho nên các học giả người Triều Tiên đã tìm cách cải biến chữ Hán để phù hợp với âm đọc của tiếng Triều Tiên. Vào khoảng [[thế kỷ thứ 15]], ở Triều Tiên xuất hiện chữ ký âm, được gọi là [[Hangul]] (한글) hay [[Hangul|Chosŏn'gŭl]] (조선글), chữ này trải qua nhiều thế kỷ phát triển thăng trầm, cuối cùng chính thức được dùng thay thế cho chữ Hán cho tới ngày nay. Chosŏn'gŭl lúc ban đầu gồm 28 ký tự, sau đó còn 24 ký tự giống như [[bảng chữ cái La Tinh]], và được dùng để ký âm tiếng Triều Tiên. Tuy Chosŏn'gŭl đã xuất hiện nhưng chữ Hán (''Hancha'') vẫn còn được giảng dạy trong trường học. Năm [[1972]], Bộ Giáo dục [[Hàn Quốc]] đã quy định phải dạy 1800 chữ Hán cơ bản cho học sinh. Còn ở [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên]], người ta đã bỏ hẳn chữ Hán.
#Ngày tháng trong bảng tính theo âm lịch.
#Ông mất ngày 22 tháng 7 năm 1433 khi đang trên [[Ấn Độ Dương]].
</div>
 
=== NhậtHạm Bảnđội ===
[[Tập tin:ZhengHeShips.gif|nhỏ|phải|200px|Bản in [[khắc gỗ]] đầu [[thế kỷ 17]] của người Trung Quốc, được cho là để miêu tả các con thuyền của Trịnh Hòa]]
Chữ Hán du nhập vào [[Nhật Bản]] thông qua con đường Triều Tiên. Chữ Hán ở Nhật được gọi là ''[[Kanji]]'' (漢字 Hán tự) và được du nhập vào Nhật theo con đường giao lưu buôn bán giữa Nhật và Triều Tiên vào khoảng [[thế kỷ thứ 4]], [[thế kỷ thứ 5|5]]. [[Tiếng Nhật]] cổ đại vốn không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật, [[người Nhật]] dùng chữ Hán để viết tiếng nói của họ. Dạng chữ đầu tiên người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ ''Man-yogana'' (萬葉假名 Vạn Diệp Giả Danh). Hệ thống chữ viết này dựa trên chữ Hán và khá phức tạp. ''Man-yogana'' được đơn giản hóa thành ''[[Hiragana]]'' ひらがな (平假名 Bình Giả Danh) và ''[[Katakana]]'' カタカナ (片假名 Phiến Giả Danh). Cả hai loại chữ này trải qua nhiều lần chỉnh lý và hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay ở Nhật. Tiếng Nhật hiện đại được viết bằng bốn loại ký tự:
# Chữ Hán (hay ''Kanji'' 漢字)
# Chữ mềm (hay ''Hiragana'' ひらがな)
# Chữ cứng (hay ''Katakana'' カタカナ)
# Chữ La Tinh (hay ''Romaji'' ローマ字).
 
Theo các nguồn sử liệu Trung Quốc thì hạm đội của Trịnh Hòa gồm 30.000 người và có trên 300 thuyền buồm vào lúc cao điểm nhất.
Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm Hán cổ, được gọi là ''On-yomi'' {{jpn|j=音読|kyu=音讀|hanviet=Âm Độc}} và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là ''Kun-yomi'' {{jpn|j=訓読|kyu=訓讀|hanviet=Huấn Độc}}. Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn mượn chữ Hán để sáng tạo ra một số chữ (khoảng vài trăm chữ) và mỗi chữ này chỉ có cách đọc theo âm tiếng Nhật; các chữ này được gọi là ''Kokuji'' {{jpn|j=国字|kyu=國字|hanviet=Quốc Tự}}, tiếng Nhật gọi là Quốc Tự Quốc Huấn (國字國訓), nghĩa là "chữ quốc ngữ âm quốc ngữ". Những chữ quốc ngữ này của người Nhật có cách hình thành khá giống [[chữ Nôm]] của [[Việt Nam]] (xin xem phần sau về chữ Nôm). Tháng 11 năm [[1946]], Bộ Giáo dục Nhật đề nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ Hán cơ bản trong trường học, và được Quốc hội Nhật thông qua năm [[1947]].
 
Chuyến thám hiểm năm [[1405]] bao gồm 27.800 người và 317 thuyền, trong đó có:
Đến năm [[1981]] thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm khoảng 1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác dùng để viết tên người. Đến năm [[2000]], các chữ Hán dùng để viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên trên 400 chữ. Các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng (''Jyoyo Kanji Hyo'', 常用漢字表 Thường Dụng Hán Tự Biểu) và Bảng chữ Hán dùng viết tên người (''Jinmeiyo Kanji Hyo'', 人名用漢字表 Nhân Danh Dụng Hán Tự Biểu).
* Các "'''thuyền châu báu'''" (bảo thuyền), được dùng cho chỉ huy và các phó chỉ huy của hạm đội, có chín cột buồm, dài khoảng 120 [[mét]] (400 ft) và rộng khoảng 50 m (160 ft).
* Các "'''thuyền chở ngựa'''", chở cống phẩm và vật liệu sửa chữa cho hạm đội, có tám cột buồm, dài khoảng 103 m (339 ft) và rộng khoảng 42 m (138 ft).
* Các "'''thuyền hậu cần'''", chuyên chở lương thực và thực phẩm cho thủy thủ đoàn, có bảy cột buồm, dài khoảng 78 m (257 ft) và rộng khoảng 35 m (115 ft).
* Các "'''thuyền chở quân lính'''", sáu cột buồm, dài khoảng 67 m (220 ft) và rộng khoảng 25 m (83 ft).
* Các "'''thuyền chiến Phú Xuyên'''", năm cột buồm, dài khoảng 50 m (165 ft).
* Các "'''thuyền tuần tra'''", có tám mái chèo, dài khoảng 37 m (120 feet).
* Các "'''thuyền chở nước'''", với sự đảm bảo cấp nước ngọt trong vòng một tháng.
 
Các đặc trưng phong phú của tàu thuyền Trung Quốc vào thời kỳ đó đã được các nhà thám hiểm châu Âu trước đó gián tiếp xác nhận, chẳng hạn như [[Ibn Battuta]] và [[Marco Polo]]. Theo Ibn Battuta, người đã đến Trung Quốc vào năm [[1347]] thì:
=== Việt Nam ===
:''...Chúng tôi dừng lại trên cảng [[Calicut]], trong khi ấy đã có 13 con thuyền của người Trung Quốc đang bốc dỡ hành. Trên [[biển Trung Hoa]] việc đi lại chỉ có thể có được nhờ các con thuyền Trung Hoa, vì thế chúng tôi sẽ miêu tả các sắp xếp của chúng. Các tàu thuyền Trung Quốc có ba loại: loại thuyền lớn được gọi là [[thuyền mành]], loại trung bình gọi là thuyền buồm và loại nhỏ là kakam. Loại lớn có thể có từ 3 đến 12 buồm, được làm từ các thanh tre gắn kết lại như cái mành. Chúng không bao giờ bị hạ xuống, nhưng xoay theo hướng gió; khi bỏ neo thì chúng được thả để tự do xoay theo gió.''
Trước khi chữ Hán du nhập vào Việt Nam, một số học giả cho rằng [[người Việt]] có chữ viết kiểu nút còn gọi là "chữ khoa đẩu". Theo các nhà nghiên cứu thì không phải người Việt dùng kiểu thắt nút để trị quốc như các sách sử của Trung Quốc mà người Việt có văn tự riêng của mình; bằng chứng là các văn tự được tìm thấy ở các văn bia miền núi phía Bắc có chữ viết ngoằn nghèo như lửa (nên còn gọi là [[Hỏa tự]]). Tiếng Việt cổ đại cũng là một ngôn ngữ thuộc [[nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer|họ Mường-Khmer]] của [[hệ ngôn ngữ Nam Á|hệ Nam Á]], khác hẳn với hệ ngôn ngữ của tiếng Hán. Nhiều tác giả cho rằng chữ Hán du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ 1 trước Công nguyên (TCN), ngay sau khi Trung Quốc chiếm xong Việt Nam. Trong suốt một nghìn năm, từ thế kỷ 1 TCN tới năm [[938]], tiếng Việt bị ảnh hưởng mạnh mẽ của chữ Hán (hay còn gọi là '''chữ Nho''').
:''Một thuyền có thể chở tới cả ngàn người, sáu trăm người trong số đó là các thủy thủ và bốn trăm người được trang bị vũ khí, bao gồm các cung thủ, những người mang [[mộc (vũ khí)|mộc]] và [[nỏ]] để bắn các loại tên có lửa. Ba thuyền nhỏ hơn, ..., đi kèm theo thuyền lớn. Các thuyền này được đóng ở [[Tuyền Châu]] và [[Quảng Châu]]. Thuyền có 4 khoang và chứa các phòng, cabin và phòng lớn cho các thương nhân; trong cabin có các phòng và buồng vệ sinh, và nó có thể đóng lại khi có người sử dụng...'' (Ibn Battuta).
 
== Liên quan với lịch sử Trung Quốc đế quốc cận đại ==
Trong suốt thời gian Bắc thuộc đó, với chính sách [[Hán hóa]] của [[nhà Hán]], tiếng Hán đã được giảng dạy ở Việt Nam và người Việt Nam đã chấp nhận ngôn ngữ mới đó song song với tiếng Việt, tiếng nói truyền miệng. Tuy người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán nhưng cũng đã [[Việt hóa]] nhiều từ của tiếng Hán thành [[từ Hán-Việt]]. Từ đó đã có rất nhiều từ Hán-Việt đi vào trong từ vựng của [[tiếng Việt]]. Sự phát triển của tiếng Hán ở Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc song song với sự phát triển của tiếng Hán ở chính Trung Quốc thời đó. Tuy nhiên, năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng của [[Ngô Quyền]], Việt Nam đã độc lập và không còn lệ thuộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề của tiếng Hán. Sau ngày giành được độc lập, mặc dù tiếng Hán là ngôn ngữ được sử dụng chính thức nhưng đã phát triển theo hướng khác với sự phát triển tiếng Hán ở Trung Quốc.
<!-- [[Hình:Giraffe by zheng he.jpg|nhỏ|phải|250px|[[Hươu cao cổ]] mang về từ [[châu Phi]] vào năm [[1414]]–năm thứ 12 đời Minh Thành Tổ]] -->
 
Một niềm tin phổ biến cho rằng sau các chuyến đi của Trịnh Hòa thì Trung Quốc lại xa rời biển cả và đi vào thời kỳ trì trệ về công nghệ. Mặc dù các nhà lịch sử như [[John Fairbank]] và [[Joseph Needham]] đã phổ biến quan điểm này trong [[thập niên 1950]], nhưng phần lớn các nhà sử học hiện đại của Trung Quốc đều đặt câu hỏi về tính chính xác của nó. Họ cho rằng thương mại đường biển của Người Trung Quốc đã không bị dừng lại sau thời Trịnh Hòa, và các con thuyền Trung Quốc vẫn tiếp tục ngự trị trong thương mại vùng [[Đông Nam Á]] cho đến tận [[thế kỷ 19]] và các hoạt động ngoại thương tích cực của Trung Quốc với [[Ấn Độ]] và [[Đông Phi]] vẫn tiếp tục một thời gian dài sau thời Trịnh Hòa. Các chuyến đi của các thuyền buồm lớn của Trung Quốc như ''[[thuyền Kì Anh|Kì Anh]]'' tới [[Hoa Kỳ]] và [[Anh]] trong khoảng thời gian từ [[1846]] đến [[1848]] đã chứng tỏ sức mạnh của tàu thuyền Trung Quốc cho đến tận thế kỷ 19.
Tiếng Hán vẫn tiếp tục được dùng và phát triển nhưng cách phát âm các chữ Hán lại theo cách phát âm của người Việt, hay [[âm Hán-Việt]]. Do nhu cầu phát triển, người Việt đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết cho họ, đó là [[chữ Nôm]]. Nhưng chữ Nôm không phải là bộ chữ hoàn thiện, cũng giống như người [[Quảng Đông]] vậy. Họ có thể viết chữ Hán Quảng Đông trong trò chuyện bình thường, nhưng họ cũng phải sử dụng chữ Hán chuẩn trong văn thư để tỏa lòng trân trọng, dù đối tượng tiếp nhận văn thư là người Quảng Đông.
<ref>{{Chú thích web| url = http://www.trangnhahoaihuong.com/phpWebSite/index.php?module=pagemaster&PAGE_user_op=view_page&PAGE_id=297&MMN_position=10:10| title = Các tiện ích về chữ Hán và chữ Nôm| accessdate = [[28 tháng 1]]| accessyear = 2010}}
</ref>
== Cách cấu tạo của Chữ Hán - Lục Thư (六書) ==
Cũng như các chữ viết khác trên thế giới, chữ Hán được hình thành từ các nét vẽ miêu tả các sự vật hiện tượng xung quanh con người. Nhưng khác ở đây là chữ Hán đã chọn một cách phát triển không giống các chữ viết khác trên thế giới. Với các chữ viết khác trên thế giới, khi xã hội phát triển, con người đã đơn giản các nét vẽ và dùng các nét đó để thể hiện cho một âm tiết nào đó trong tiếng nói của các dân tộc đó. Còn với chữ Hán, nó vẫn giữ lại ý nghĩa tượng hình ban đầu của chữ. Và dùng các phép tạo chữ khác để tạo nên các chữ có ý nghĩa trừu tượng (xem thêm ở dưới). Chính vì thế, chữ tượng hình mặc dù chiếm một phần không lớn trong chữ Hán, nhưng lại có tầm quan trọng rất lớn trong hệ thống chữ Hán.
 
Mặc dù [[nhà Minh]] đã cấm đoán vận chuyển bằng tàu thuyền trên đại dương trong vài chục năm bằng chỉ dụ ''Hải cấm'', nhưng cuối cùng họ cũng đã bãi bỏ lệnh cấm này. Quan điểm khác viện dẫn thực tế là bằng lệnh cấm tàu thuyền này thì nhà Minh (và sau này là [[nhà Thanh]]) đã làm gia tăng số lượng người buôn lậu trên chợ đen. Điều này làm giảm nguồn thu thuế của chính quyền và làm gia tăng nạn [[hải tặc]]. Sự thiếu vắng của hải quân trên biển đã làm cho Trung Hoa dễ bị tổn thương bởi nạn hải tặc [[uy khấu]] (''wakou'') đã hoành hành vùng bờ biển Trung Quốc trong [[thế kỷ 16]].
Chữ Hán được hình thành theo các cách chính:
* Chữ Tượng Hình (象形文字): "Tượng hình" có nghĩa là căn cứ trên hình tượng của sự vật mà hình thành chữ viết. Các chữ này rất dễ nhận biết và đơn giản.
* Chữ Chỉ Sự (指事文字) hay chữ Biểu Ý (表意文字): Cùng với sự phát triển của con người, chữ Hán đã được phát triển lên một bước cao hơn để đáp ứng đủ nhu cầu diễn tả những sự việc đó là chữ Chỉ Sự. Ví dụ, để tạo nên chữ Bản (本), diễn đạt nghĩa "gốc rễ của cây" (根), thì người ta dùng chữ Mộc (木) và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa "ở đây là gốc rễ" và chữ Bản (本) được hình thành. Chữ Thượng (上), chữ Hạ (下) và chữ Thiên (天) cũng là những chữ Chỉ Sự được hình thành theo cách tương tự. "Chỉ Sự" có nghĩa là chỉ định một sự vật và biểu diễn bằng chữ.
* Chữ Hội Ý (Hội Ý Văn Tự 會意文字): Để tăng thêm chữ Hán, cho đến nay người ta có nhiều phương pháp tạo nhiều chữ mới có ý nghĩa mới. Ví dụ, chữ Lâm (林, rừng nơi có nhiều cây) có hai chữ Mộc (木) xếp hàng đứng cạnh nhau được làm bằng cách ghép hai chữ Mộc với nhau (Rừng thì có nhiều cây!!). Chữ Sâm (森, rừng rậm nơi có rất nhiều cây) được tạo thành bằng cách ghép ba chữ Mộc. Còn chữ Minh (鳴, kêu, hót) được hình thành bằng cách ghép chữ Điểu (鳥, con chim) bên cạnh chữ Khẩu (口, mồm); chữ Thủ (取, cầm, nắm) được hình thành bằng cách chữ Nhĩ (耳, tai) của động vật với tay (chữ Thủ 手, chữ Hựu 又). Những chữ được tạo thành theo phương pháp ghép như trên gọi là chữ Hội Ý (會意文字). "Hội Ý" có nghĩa là ghép ý nghĩa với nhau.
* Chữ Hình Thanh (形聲文字): Cùng với những chữ Tượng Hình, Chỉ Sự và Hội Ý, có nhiều phương pháp tạo nên chữ Hán, nhưng có thể nói là đa số các chữ Hán được hình thành bằng phương pháp hình thanh, gọi là chữ Hình Thanh (形聲文字). Chữ Hình Thanh chiếm tới 80% toàn bộ chữ Hán. Chữ Hình Thanh là những chữ bao gồm hai phần: phần hình (形) là phần biễu diễn ý nghĩa chính mà đã được dùng từ lâu đời, và phần thanh (声) là phần biểu diễn cách phát âm chính xác của từ đó. Ví dụ, chữ Khẩu (口) có hình biểu diễn việc ăn hoặc nói, và chữ Vị (未) có các phát âm giống chữ vị (trong khẩu vị) khi ghép hai chữ với nhau tạo nên chữ Vị (味) của khẩu vị. Bộ Thủy (氵) biểu diễn nghĩa dòng sông hoặc dòng nước chảy, khi ghép cùng với chữ Thanh (青, màu xanh) tạo thành chữ Thanh (清) có nghĩa là "trong suốt" hoặc "trong xanh".
* Chữ Chuyển Chú (轉注文字): Các chữ Hán được hình thành bằng bốn phương pháp kể trên, nhưng còn có những chữ có thêm những ý nghĩa khác biệt, và được sử dụng trong những nghĩa hoàn toàn khác biệt đó. Ví dụ, chữ Dược (藥), có nguồn gốc là từ chữ Nhạc (樂), âm nhạc làm cho lòng người cảm thấy sung sướng phấn khởi nên chữ Lạc (樂) cũng có nghĩa là vui vẻ. Chữ Dược (藥) được tạo thành bằng cách ghép thêm bộ Thảo (có nghĩa là cây cỏ) vào chữ Lạc (樂). Chữ được hình thành theo phương pháp này được gọi là chữ Chuyển Chú (轉注文字).
* Chữ Giả Tá (假借文字): Những chữ được hình thành theo phương pháp bằng cách mượn chữ có cùng cách phát âm được gọi là chữ Giả Tá (假借文字).
 
Có một điều chắc chắn. Đó là các sự hỗ trợ của chính quyền cho hoạt động hàng hải đã suy giảm nghiêm trọng sau các chuyến đi của Trịnh Hòa. Từ đầu [[thế kỷ 15]] Trung Quốc đã phải chịu áp lực ngày càng tăng từ các bộ lạc [[Mông Cổ]] mới trỗi dậy ở phía bắc. Năm [[1421]] vua Minh Thành Tổ đã dời đô từ [[Nam Kinh]] về [[Bắc Kinh]] như là một sự thừa nhận sự hiện hữu của mối đe dọa này cũng như là để gần với khu vực quyền lực của dòng họ này. Từ kinh đô mới ông có thể kiểm soát tốt hơn các cố gắng nhằm bảo vệ biên cương phía bắc. Với phí tổn đáng kể, Trung Quốc hàng năm đều phải có các cuộc viễn chinh nhằm làm suy yếu người Mông Cổ. Các phí tổn cho các chiến dịch trên bộ này đã cạnh tranh trực tiếp với ngân sách cần thiết dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải.
Ở trên giải thích về bốn cách tạo chữ và hai cách sử dụng chữ Hán. Bốn cách tạo chữ và hai cách sử dụng được gọi chung là Lục Thư (六書).
 
Năm [[1449]] [[kỵ binh]] Mông Cổ đã phục kích cuộc hành quân do đích thân hoàng đế [[Minh Anh Tông]] chỉ huy chưa đầy một ngày sau khi đội quân này rời khỏi cổng kinh thành. Trong [[trận chiến pháo đài Thổ Mộc]] thì người Mông Cổ đã đánh bại quân đội nhà Minh và bắt sống hoàng đế Trung Hoa. Trận chiến này có hai ảnh hưởng nổi bật. Thứ nhất, nó minh chứng một cách rõ ràng mối đe dọa của các bộ lạc miền bắc. Thứ hai, người Mông Cổ đã gây ra khủng hoảng chính trị tại Trung Quốc khi họ trả tự do cho Anh Tông sau khi người em cùng cha khác mẹ là [[Minh Đại Tông|Chu Kì Ngọc]] tự xưng làm vua với niên hiệu Cảnh Thái. Sự ổn định về chính trị chỉ trở lại vào năm [[1457]] khi Anh Tông trở lại ngai vàng. Sau khi ông trở lại nắm quyền thì Trung Quốc đã từ bỏ chiến lược thám hiểm các vùng đất mới hàng năm và thay vào đó là bắt tay vào việc củng cố và mở rộng [[Vạn Lý Trường Thành]] vô cùng tốn kém. Trong hoàn cảnh đó, ngân khố dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải đơn giản là không còn nữa.
== Các bộ chữ trong chữ Hán - Bộ thủ (部首) ==
Trung Quốc có đến hàng ngàn chữ nhưng được phân loại thành 214 bộ chữ, mỗi bộ chữ được đại diện bằng một thành phần cấu tạo chung gọi là '''bộ thủ'''. dựa theo số nét, các bộ thủ bao gồm:
# 一 丨 丶 丿 乙 亅
# 二 亠 人 儿 入 八 冂 冖 冫 几 凵 刀 力 勹 匕 匚 匸 十 卜 卩 厂 厶 又
# 口 囗 土 士 夂 夊 夕 大 女 子 宀 寸 小 尢 尸 屮 山 巛 工 己 巾 干 幺 广 廴 廾 弋 弓 彐 彡 彳
# 心 戈 戶 手 支 攴 文 斗 斤 方 无 日 曰 月 木 欠 止 歹 殳 毋 比 毛 氏 气 水 火 爪 父 爻 爿 片 牙 牛 犬
# 玄 玉 瓜 瓦 甘 生 用 田 疋 疒 癶 白 皮 皿 目 矛 矢 石 示 禸 禾 穴 立
# 竹 米 糸 缶 网 羊 羽 老 而 耒 耳 聿 肉 臣 自 至 臼 舌 舛 舟 艮 色 艸 虍 虫 血 行 衣 襾
# 見 角 言 谷 豆 豕 豸 貝 赤 走 足 身 車 辛 辰 辵 邑 酉 釆 里
# 金 長 門 阜 隶 隹 雨 青 非
# 面 革 韋 韭 音 頁 風 飛 食 首 香
# 馬 骨 高 髟 鬥 鬯 鬲 鬼
# 魚 鳥 鹵 鹿 麥 麻
# 黄 黍 黑 黹
# 黽 鼎 鼓 鼠
# 鼻 齊
# 齒
# 龍 龜
# 龠
<ref>{{Chú thích web| url = http://boorin.wordpress.com/2008/06/03/214-bộ-thủ-chữ-han-汉-字-部-首-表/| title = 214 bộ thủ chữ Hán thông dụng nhất| accessdate = [[14 tháng 3]]| accessyear = 2009}}</ref>
 
Một cách cơ bản hơn, không giống như các chuyến thám hiểm sau này của các quốc gia châu Âu, các tàu thuyền chở của cải của người Trung Quốc dường như bị hao hụt dần đến cạn kiệt sau các chuyến đi dài, do các chuyến đi này thiếu động cơ kinh tế. Chúng chủ yếu để làm tăng uy thế của hoàng đế và các chi phí cho chuyến đi cũng như tặng phẩm cho các vị vua chúa và sứ giả nước ngoài còn lớn hơn cả các món lợi thu được từ các cống phẩm. Vì thế khi tài chính của chính quyền nhà nước bị áp lực (giống như các quốc gia thời Trung cổ đã làm), thì các ngân quỹ dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải không thể có nữa. Trái lại, vào thế kỷ 16, phần lớn các chuyến thám hiểm của người châu Âu là có đủ lãi từ các hoạt động thương mại cũng như từ sự chiếm đoạt các nguồn tài nguyên/đất của thổ dân để có thể tự trang trải, cho phép họ có thể tiếp tục thám hiểm mà không liên quan nhiều đến ngân khố quốc gia.
Tuy nhiên số bộ thủ không phải bất biến mà có sự thay đổi theo thời gian.
 
== Khía cạnh văn hóa ==
Số bộ thủ nói trên là dạng chữ phồn thể, dựa theo ''Khang Hi tự điển'' (1716) và các từ điển thông dụng sau này như ''Trung Hoa đại tự điển'' (1915), ''Từ hải'' (1936).<ref>{{Chú thích web| url = http://vi.wiktionary.org/wiki/Wiktionary:Danh_mục_bộ_thủ_chữ_Hán| title = Danh mục bộ thủ chữ Hán trên wikitionary| accessdate = [[12 tháng 7]]| accessyear = 2009}}</ref>
<!-- [[Hình:1120031329 2zhenghe2.jpg|nhỏ|trái|Các con tem nhân kỷ niệm 600 năm các chuyến thám hiểm của Trịnh Hòa]] -->
 
Một giả thuyết gây mâu thuẫn gần đây (''[[giả thuyết 1421]]'') được [[Gavin Menzies]] đưa ra trong cuốn sách của ông đã giả thiết rằng Trịnh Hòa đã đi vòng quanh thế giới và phát hiện ra châu Mỹ trong [[thế kỷ 15]] trước cả [[Ferdinand Magellan]] và [[Christopher Columbus]].
Trước đó, trong ''Thuyết văn giải tự'' của Hứa Thận (thời [[Đông Hán]]) có 9350 chữ phân làm 540 bộ thủ. ''Tự lâm'' của Lã Thầm ([[đời Tấn]]) và ''Loại biên'' của Vương Chu và Tư Mã Quang ([[đời Tống]]) cũng có 540 bộ thủ. ''Ngọc thiên'' của Cố Dã Vương đời [[nhà Lương|Lương]] có 542 bộ thủ. Với việc giản thể hóa chữ Hán, vì phải thêm các bộ thủ giản thể nên số bộ thủ tăng lên thành 227 bộ. Tuy nhiên, một số cách ghép bộ thủ đã làm giảm số bộ thủ, chẳng hạn ''Tân Hoa tự điển'' có 189 bộ thủ, ''Hiện đại Hán ngữ từ điển'' có 188 bộ thủ, ''Hán ngữ đại từ điển'' có 200 bộ thủ. Riêng cuốn ''Từ nguyên'' xuất bản năm 1979 có tới 243 bộ thủ.
 
Những thương nhân trong đoàn thám hiểm [[Qeng Ho]] được nói bóng gió trong truyện [[khoa học viễn tưởng]] ''A Fire Upon the Deep'' của [[Vernor Vinge]] (và sau đó được tưởng tượng rõ nét hơn trong ''A Deepness in the Sky'') phản ánh tên của Trịnh Hòa. Các chuyến đi của Trịnh Hòa và sự từ bỏ thám hiểm hàng hải sau đó của các hoàng đế Trung Hoa đã trở thành biểu tượng trong cộng đồng ủng hộ chương trình thăm dò [[vũ trụ]] về các thành công và sự hủy bỏ của [[chương trình Apollo]].
== Nghệ thuật thư pháp ==
{{chính|Thư pháp Á Đông}}
[[Thư pháp]] là nghệ thuật viết chữ. Nghệ thuật Thư pháp Á Đông là nghệ thuật viết chữ Hán. Chữ Hán là loại [[chữ tượng hình]] và viết chữ Hán phải dùng bút lông để làm tăng thêm sức thể hiện của nhà thư pháp. Chữ Hán trong lịch sử đã một mặt làm nhiêm vụ là phương tiện để ghi chép, trao đổi tưởng truyền đạt văn hóa... của thế hệ này đến thế hệ khác, mặt khác nó còn tự tạo cho mình một môn nghệ thuật tạo hình độc đáo.<ref>{{Chú thích web| url = http://nguyentl.free.fr/html/sujet_thu_phap_1_vn.htm| title = Nghệ thuật thư pháp Việt Nam| accessdate = [[14 tháng 8]]| accessyear = 2008}}</ref>
 
Hình tượng của Trịnh Hòa cũng được miêu tả trong cuốn sách của Kim Stanley Robinson ''The Years of Rice and Salt''.
== Xem thêm ==
* [[Tiếng Trung Quốc]]
* [[Chữ Nôm]]
* [[Giản thể]]
* [[Phồn thể]]
* [[Phanh âm]]
 
Một số nhà sử học cũng như trong bài viết gần đây của ''[[National Geographic]]'' về Trịnh Hòa, cho rằng [[thuyền trưởng Sindbad]] (từ [[tiếng Ả Rập]] السندباد-As-Sindibad) và tập hợp các câu chuyện về thám hiểm hàng hải đã tạo ra Bảy chuyến đi của thuyền trưởng Sindbad, được tìm thấy trong ''[[Nghìn lẻ một đêm]]'' chịu ảnh hưởng sâu nặng của các câu chuyện được tích lũy trong nhiều người đi biển đã từng theo, buôn bán và làm việc trong các tàu thuyền hỗ trợ khác nhau cho hạm đội của [[nhà Minh]]. Niềm tin này được hỗ trợ một phần bằng sự tương tự trong tên của Sindbad và các diễn giải khác nhau của tên gọi của Trịnh Hòa trong [[tiếng Ẩ Rập]] và [[tiếng Trung]] ([[phồn thể]]: 鄭和; [[giản thể]]: 郑和; Hán ngữ bính âm: ''Zhèng Hé''; [[Wade-Giles]]: ''Cheng Ho''; tên khai sinh: Mã Tam Bảo (馬三寶 /马三宝; [[pinyin]]: ''Mǎ Sānbǎo'' tên [[Ả Rập]]: ''Hajji Mahmud Shams'') cùng với sự tương tự trong số lần (7) và các khu vực giống nhau trong các chuyến đi của Sindbad và Trịnh Hòa.
== Tham khảo ==
 
=== Chú giải ===
Tháng 1 năm [[2006]], ''[[BBC News]]'' và ''[[The Economist]]'' cả hai cùng có bài viết mới liên quan đến triển lãm bản đồ hàng hải Trung Quốc, được cho là có từ năm [[1763]], trong đó có thông tin là nó được sao chép từ một bản đồ khác vẽ năm [[1418]]. Bản đồ có các miêu tả chi tiết về cả các thổ dân châu Mỹ và Australia. Theo chủ sở hữu của bản đồ, ông Liu Gang-một luật sư Trung Quốc và là một nhà sưu tập đồ cổ, ông đã mua bản đồ này với giá 500 USD từ một người ở [[Thượng Hải]] năm [[2001]].
<references/>
 
Sau khi Liu đọc cuốn sách ''1421:The Year China discovered the World'' (1421: Năm Trung Quốc phát hiện ra Thế giới) của Gavin Menzies, ông nhận ra tầm quan trọng của bản đồ này. Tấm bản đồ này hiện đang được kiểm tra để xác định tuổi của mực và giấy dùng để vẽ nó, với kết quả sẽ có trong tháng 2 năm 2006. Nếu như bản đồ được xác nhận là vẽ vào năm [[1763]], thì câu hỏi còn lại là nó có phải bản sao chính xác của tấm bản đồ sớm hơn vào năm [[1418]] hay không, hay chỉ đơn giản là sự sao chép cùng thời của các bản đồ của người châu Âu.
 
Một số học giả về lịch sử Trung Quốc đặt câu hỏi về tính xác thực của tấm bản đồ này. Một số đề cập tới việc sử dụng kiểu ánh xạ tương tự như kiểu Mercator, chính xác là liên quan tới kinh độ và định hướng theo hướng Bắc. Không có đặc trưng nào trong số này đã được sử dụng trong các tấm bản đồ tốt nhất được vẽ ra ở châu Á hay châu Âu trong thời kỳ này (ví dụ, xem [[Cương lí đồ]] (năm [[1410]]) và [[Fra Mauro]] ([[1459]])). Người ta cũng đề cập tới sự miêu tả sai [[đảo California]], một lỗi phổ biến thường bị lặp lại trong các bản đồ của người châu Âu từ [[thế kỷ 16]] đến [[thế kỷ 18]].
 
Geoff Wade ở Viện nghiên cứu châu Á của trường Đại học Quốc gia Singapore đã tranh cãi kịch liệt về tính xác thực của tấm bản đồ này và cho rằng nó hoặc là đồ giả mạo ở thế kỷ 18 hoặc [[thế kỷ 21]]. Ông cũng chỉ ra một số điểm sai lầm xuất hiện trên bản đồ và các chú giải của nó. Ví dụ, trong đoạn văn bản bên cạnh Đông Âu được dịch ra như sau "Người ở đây phần lớn tin Chúa Trời và tôn giáo của họ được gọi là 'Jing'", Wade lưu ý rằng từ Trung Quốc để chỉ Chúa Trời của người Thiên chúa giáo là "Thượng đế", việc sử dụng từ Jing là do các nhà truyền giáo phương Tây đặt ra vào khoảng thế kỷ 16.
 
==Trịnh Hòa trong văn hóa hiện đại==
Trịnh Hòa xuất hiện trong loạt phim truyền hình "Zheng He Xia Xi Yang" do [[Đài Truyền hình Trung Ương Trung Quốc|CCTV]] vào tháng 4, 2009, [[La Gia Lương]] trong vai Trịnh Hòa và [[Đường Quốc Cường]] trong vai [[Minh Thành Tổ]].
 
===Ngày Hàng hải===
Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, 11 tháng 7 là ngày Hàng hải Trung Quốc (中国航海日) để tưởng nhớ chuyến hành trình đầu tiên của Trịnh Hòa.
 
== Xem thêm ==
* [[Hạm đội nhà Minh]]
* [[Trương Khiên]]
* [[Ban Siêu]]
* [[Pháp Hiển]]
* [[Đường Huyền Trang]]
* [[Chu Mãn]]
 
=== TừĐọc điểnthêm ===
* [[Louise Levathes]], ''When China Ruled the Seas: The Treasure Fleet of the Dragon Throne, 1405-1433'', Oxford University Press, 1997, sách bìa mềm, ISBN 0-19-511207-5
* [http://vdict.com Từ Điển Hán Việt trên VDict]
* [[Gavin Menzies]], ''[[giả thuyết 1421|1421: The Year the Chinese Discovered the World]]'', Morrow/Avon, 2003, bìa cứng, 576 trang, ISBN 0-06-053763-9. (Các học giả coi cuốn sách này thiếu các nền tảng thực tế về việc người Trung Quốc phát hiện ra châu Mỹ; [http://www.nytimes.com/2003/02/02/books/review/02WILFORT.html?tntemail1 Bài điểm báo ''1421'' của biên tập viên khoa học của ''New York Times''])
* [http://nomna.org Tự Điển Hán Nôm trên Nôm Na]
* [http://www.nytimes.com/2005/07/20/international/asia/20letter.html Trung Quốc có nhà hàng hải cổ đại để nói với bạn]
* [http://pagesperso-orange.fr/dang.tk/langues/hanviet.htm Hán-Việt từ điển -- Thiều Chửu]
*Dreyer, Edward L. (2006). ''Zheng He: China and the Oceans in the Early Ming, 1405–1433 (Library of World Biography Series)''. Longman. ISBN 0-321-08443-8.
* [http://www.asinah.net/china/vietnamese.html Từ Điển Giản/Hán Việt]
*Levathes, Louise (1997). ''When China Ruled the Seas: The Treasure Fleet of the Dragon Throne, 1405–1433.'' Oxford University Press, trade paperback. ISBN 0-19-511207-5.
* [http://vn.360plus.yahoo.com/invescolayer/article?mid=4379 Hán Việt Từ Điển online của Đặng Thế Kiệt]
*Mills, J. V. G. (1970). ''Ying-yai Sheng-lan, The Overall Survey of the Ocean's Shores (1433), translated from the Chinese text edited by Feng Ch'eng Chun with introduction, notes and appendices by J. V. G. Mills.'' White Lotus Press. Reprinted 1970, 1997. ISBN 974-8496-78-3.
* [http://vn.360plus.yahoo.com/invescolayer/article?mid=4401 Từ điển Hán Việt HVDic 2.23 offline]
*Ming-Yang, Dr Su. 2004 Seven Epic Voyages of Zheng He in Ming China (1405–1433)
* [http://vn.360plus.yahoo.com/invescolayer/article?mid=4408 Chinese - English dictionary]
*Viviano, Frank (2005). "China's Great Armada." ''National Geographic'', 208(1):28–53, July.
*[http://www.nytimes.com/2005/07/20/international/asia/20letter.html China Has an Ancient Mariner to Tell You About]
*[http://proj.ncku.edu.tw/chengho/ Newsletter, in Chinese, on academic research on the Zheng He voyages]
*Cummins, Joseph (2006). ''History's Great Untold Stories''. Murdoch Books. ISBN 1-74045-808-7.
 
== Liên kết ngoài ==
{{Commonscat|Zheng He}}
* [http://www.hannom.org.vn/ Trang web của Viện nghiên cứu Hán - Nôm]
* [http://www.economist.com/displayStory.cfm?story_id=5381851 Economist : Có lẽ Trung Quốc đánh bại Columbus (12/1/2006)]
* [http://www.nomfoundation.org/ Trang web của Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm]
* [http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/4609074.stm BBC Bản đồ mới của Trung Quốc cho rằng họ tìm ra châu Mỹ (13/1/2006)]
* [http://www.nomna.org/ Trang web của Văn phòng Nôm Na]
* [http://h-net.msu.edu/cgi-bin/logbrowse.pl?trx=vx&list=H-Asia&month=0601&week=b&msg=7MzyPLTfZLXGJ%2bA9uBj7Tg&user=&pw= Phản bác bài của Economist] của Geoff Wade, Viện nghiên cứu châu Á, Đại học quốc gia Singapore
* [http://home.thuhoavn.com/?tag=thu-phap-chu-han Thư pháp chữ Hán]
* [http://h-net.msu.edu/cgi-bin/logbrowse.pl?trx=vx&list=H-Asia&month=0601&week=b&msg=gv1CuUMQ0QkDD0gKTUJ//A&user=&pw= Trao đổi giữa Liu Gang và Geoff Wade]
* [http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=63548&ChannelID=8 “Hãy gìn giữ kho tàng di sản chữ Hán - Nôm”]
* [http://www.laputanlogic.com/articles/2006/01/16-0036-4322.html Laputan Logic: Tấm bản đồ Vinland của Trung Quốc] Tấm bản đồ của Liu Gang, Bản đồ học Trung Quốc và chuyện tưởng tượng về [[đảo California]].
* [http://www7.nationalgeographic.com/ngm/0507/feature2/index.html National Geographic-Bài viết về "hạm đội lớn của Trung Quốc" (7/2005)]
* [http://www.time.com/time/asia/features/journey2001/ TIME- Bài viết về Trịnh Hòa (8/2001)]
* [http://www.chinapage.com/chengho.html Nhà hàng hải Trung Quốc vĩ đại Trịnh Hòa (tóm tắt tiểu sử với bản đồ và hình ảnh)]
*[http://www.telegraph.co.uk/news/main.jhtml?xml=/news/2002/03/04/nexp04.xml&sSheet=/news/2002/03/04/ixhome.html Nhà thám hiểm Trung Quốc-người 'đánh bại Columbus trong tìm kiếm châu Mỹ']
* [http://www.1421.tv Website chính thức của Gavin Menzies với nghiên cứu của ông về Trịnh Hòa]
* [http://bbs.keyhole.com/ubb/showthreaded.php?Cat=&Board=EarthHistory&Number=37092&page=0&view=collapsed&sb=5&o=&fpart=1 Bản đồ của Google về các chuyến đi của Trịnh Hòa]
* [http://www.visitsingapore-zhenghe.com/1421/index.php Singapore Tourism Board - Triển lãm "1421: The Year China Discovered The World"]
*[http://www.1421.tv/index.asp 1421]
* [http://service.spiegel.de/cache/international/spiegel/0,1518,372474,00.html Anh hùng của biển cả] trong ''[[Der Spiegel]]'', của Andreas Lorenz, [[29 tháng 8]] năm [[2005]]
*[http://www.elibraryhub.com/zhengHe/home.html Triển lãm ảo của elibraryhub.com về Trịnh Hòa]
{{Thời gian sống|sinh=1371|mất=1433}}
 
{{Commonscat|Chinese characters}}
 
[[Thể loại:ChữNhà Hánthám hiểm Trung Quốc]]
[[Thể loại:NgônNhà ngữthám hiểm châu Á]]
[[Thể loại:HánThám họchiểm tiền Columbus]]
[[Thể loại:Thủy sư Trung Quốc]]
[[Thể loại:Nhà địa lý]]
[[Thể loại:Người nhà Minh]]
[[Thể loại:Người Vân Nam]]
[[Thể loại:Người Hồi giáo]]
[[Thể loại:Hoạn quan Trung Quốc]]
 
{{Các chủ đề|Trung Quốc|Lịch sử}}
{{Liên kết bài chất lượng tốt|zh}}
{{Liên kết chọn lọc|de}}
{{Liên kết chọn lọc|pl}}