Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Việt Nam Quang phục Hội”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Thông tin đảng phái chính trị
| tên = Việt Nam Quang Phụcphục Hội
| tên gốc = 越南光復會
| mã màu = #EF4135
Dòng 27:
| ghi chú =
}}
[[Tập tin:VNQPHquocky.png|thumb|Quốc kỳ Ngũ tinh của Việt Nam Quang Phụcphục Hội theo cuốn Tự phán của Phan Bội Châu]]
[[Tập tin:VNQPQuanky.png|thumb|Quân kỳ Ngũ tinh Quang Phục quân của Việt Nam Quang Phụcphục hộiHội theo mô tả trong cuốn Tự Phán của Phan Bội Châu]]
[[Tập tin:VNQPHhoiky.png|thumb|Hội kỳ Ngũ tinh Việt namNam Quang Phụcphục Hội theo mô tả trong cuốn Tự phán của Phan Bội Châu]]
'''Việt Nam Quang Phụcphục Hội''' ({{hn|ch=越南光復會}}) là một tổ chức cách mạng thành lập năm 1912 do [[Phan Bội Châu]] đề xướng theo chủ nghĩa [[dân chủ]] với mục đích đánh đuổi người Pháp khỏi [[Liên bang Đông Dương|Đông Dương]]. Tôn chỉ của tổ chức này là: ''Khôi phục Việt Nam, kiến lập [[Việt Nam Dân quốc]]'' (越南民國).
 
==Hình thành==
Sau khi cuộc [[Cách mạng Tân Hợi]] thành công ở [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] thì triều đình [[nhà Thanh]] cáo chung và tư tưởng [[dân chủ]] đã thuyết phục được Phan Bội Châu noi theo con đường mới thay vì đường lối [[quân chủ lập hiến]] trước kia. Tuy vậy ông vẫn suy tôn Kỳ Ngoại Hầu [[Cường Để]] làm hội chủ, chức Bộ trưởng Tổng vụ của một hội đoàn mới mang tên ''Việt Nam Quang Phụcphục Hội''.
 
[[Phan Bội Châu]] tự đảm nhận làm phó hội chủ cùng là đại diện [[Trung Kỳ]]; [[Nguyễn Thượng Hiền]] là đại diện [[Bắc Kỳ]]; và [[Nguyễn Thần Hiến]] là đại diện [[Nam Kỳ]]. Ba ông là thành phần "Bình nghị Bộ" của Hội.
Dòng 51:
Đội quân thành lập lấy tên là "Quang Phục quân" có sách nội quy với tên ''Quang Phục quân Phương lược'' hơn 100 trang do Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu soạn.
 
Hội lấy cờ đỏ, góc tư trên màu sẫm với năm ngôi sao trắng xếp thành chữ "X" làm hội kỳ của Việt Nam Quang Phụcphục Hội, quốc kỳ là cờ vàng với năm ngôi sao đỏ, quân kỳ của [[Việt Nam Quang phục quân|Việt Nam Quang Phục quân]] là cờ đỏ năm ngôi sao trắng.<ref>Phạm Văn Sơn, ''QUÂN DÂN VIỆT NAM CHỐNG TÂY XÂM (1847-1945) - Quân sử III'', Nhà xuất bản Bộ Tổng tham mưu, Hà Nội, 1971, trang 350.</ref><ref>Phan Bội Châu, ''Tự Phán'', Nhà xuất bản Anh Minh, Huế, 1956, trang 152.</ref>
 
Trong cuốn Tự&nbsp; phán, Phan Bội Châu có viết về việc Việt Nam Quang Phụcphục Hội thực hiện việc thiết kế quốc kỳ và quân kỳ&nbsp; năm 1912 tại Quảng Châu, Trung Quốc.
 
''"Xưa nước ta chỉ có cờ Hoàng Đế mà không có cờ nước cũng là một việc đáng quái gỡ.&nbsp; Hội Việt Nam Quang Phục mới chế định ra quốc kỳ gọi bằng cờ ngũ tinh, dạng huy thức dùng bằng cách ngũ tinh liên châu:''
Dòng 63:
''Quân kỳ sở dĩ dùng bạch tinh là tỏ rõ mục đích quân&nbsp; cốt&nbsp; đánh đổ chính phủ người&nbsp; (da) trắng"'' <ref>Phan Bội Châu - Tự Phán, nhà xuất bản Anh Minh, Huế, 1956 trang 152.</ref>
 
Quốc kỳ và quân kỳ trên không&nbsp;có cơ hội&nbsp;kéo lên ở phủ Tam Kỳ. Cờ kéo lên ở Phủ Tam Kỳ, theo miêu tả, là cờ của Việt Nam Quang Phụcphục Hội.
 
==Hoạt động==
Dòng 69:
 
===Ném tạc đạn khủng bố===
Việt Nam Quang Phụcphục Hội trong những năm 1913-1915 với yêu sách khôi phục chủ quyền cho Việt Nam quyết dùng bạo động để gây tiếng vang trong dân chúng cùng áp lực chính quyền [[Đông Dương thuộc Pháp]]. Trong số những sự kiện đáng kể là vụ ám sát quan [[tuần phủ]] tỉnh [[Thái Bình]] Nguyễn Duy Hàn bằng tạc đạn vào trưa ngày 19 tháng 4 năm 1913 do [[Phạm Văn Tráng]] và Phạm Đề Quy thực hiện.<ref name="Hoàng Cơ Thụy1665">Hoàng Cơ Thụy. ''Việt sử khảo luận''. Paris: Nam Á, 2002. tr. 1665</ref> Hai tuần sau vào chiều ngày 26 tháng 4, [[Nguyễn Khắc Cần]] và Nguyễn Văn Thụy ném tạc đạn vào khách sạn Hanoi Hôtel ở phố Tràng Tiền, [[Hà Nội]], giết chết hai [[thiếu tá]] [[Pháp]] Chapuis & Montgrand cùng làm một số người khác bị thương.<ref name="Hoàng Cơ Thụy1665"/>
 
Chính quyền Bảo hộ liền đàn áp mạnh mẽ, lập Hội đồng Đề hình vào Tháng Năm 1913 để truy tố 99 người. Họ tuyên án tử hình bảy người; một người bị án chung thân khổ sai, và tám người bị án [[lưu đày]]. Bảy người bị chém là Phạm Tráng (người giết Nguyễn Duy Hàn), Nguyễn Văn Túy (người ném bom khách sạn), Nguyễn Khắc Cầu, Vũ Ngọc Thụy, Phạm Hoàng Quế và Phạm Hoàng Triết. Ngoài ra năm hội viên Việt Nam Quang Phụcphục Hội là Cường Để, Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Quỳnh Chi, và Nguyễn Bá Trác cũng bị tuyên án tử hình khiếm diện. Người Pháp còn làm áp lực với Trung Hoa để ngưng yểm trợ nghĩa quân nên Hội mất căn cứ ở vùng biên giới Việt-Hoa.
 
===Vận động lính bản xứ===
Dòng 78:
===Đánh đồn Tà Lùng===
{{Chính|Trận Tà Lùng}}
Cuối năm 1914 thì Phan Bội Châu bị nhà chức trách Trung Hoa bắt giam, mãi đến năm 1917 ông mới được thả. Dù vắng Phan Bội Châu, Hội vẫn tiếp tục hoạt động dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thượng Hiền. Tháng 3 năm 1915, Việt Nam Quang Phụcphục Hội chủ trương đánh úp [[Móng Cái]], Lạng Sơn, [[Hà Khẩu]] với ba đường do [[Nguyễn Mạnh Hiếu]], [[Nguyễn Thượng Hiền]] và [[Hoàng Trọng Mậu]] chỉ huy.<ref name="Xuân Lâm p 1">Đinh Xuân Lâm (chủ biên), ''Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập 1'', Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2007, trang 196.</ref> Do bất đồng nội bộ nên chỉ mở [[Trận Tà Lùng|cuộc tấn công đồn Tà Lùng]] ở [[Cao Bằng]] nhưng thất bại.<ref name="Xuân Lâm p 1"/>
 
===Phá ngục Lao Bảo===
{{Chính|Phá ngục Lao Bảo}}
Ngày 28 tháng 9 năm 1915, tù nhân Lao Bảo, chủ yếu là các thành viên của Việt Nam Quang Phụcphục Hội, Duy tân Hội,... do [[Liêu Thanh]] và [[Hồ Bá Kiện]] chỉ huy đã nổi dậy. Tù nhân khoảng 200 người giết lính canh, phá gông cùm, cướp vũ khí, rồi rút chạy và tan rã.<ref name="Xuân Lâm p 1"/>
 
===Mưu khởi nghĩa ở Trung Kỳ===
{{Chính|Duy Tân#Dự định khởi nghĩa với Việt Nam Quang Phụcphục Hội}}
Năm 1916 các ông [[Trần Cao Vân]] & [[Thái Phiên]] toan khởi nghĩa ở Huế và Quảng Nam sau khi liên lạc được với [[Duy Tân]] hầu đưa nhà vua ra quân khu dựng cờ chống Pháp nhưng việc vỡ lở. Vua Duy Tân bị đày sang [[Réunion]]. Các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phạm Hồng Cương, Phan Thành Tài đều bị hành quyết.<ref>Đinh Xuân Lâm (chủ biên), ''Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập 1'', Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2007, trang 197-198.</ref>