Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 18:
| bãi bỏ = 1965
| hàm trên = [[Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|Nguyên soái]] (đã bãi bỏ)
| hàm dưới = [[Thượng tướng CộngQuân hòaGiải phóng Nhân dân Trung HoaQuốc|Thượng tướng]]
| tương đương = Nhất cấp Thượng tướng (đã bãi bỏ)
| lịch sử =
}}
 
'''Đại tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc''' (Còn{{lang-zh|中国人民解放军大将}}), còn gọi là '''Thập đại tướng quân''' (十大将军) là 10 tướng lĩnh cao cấp đầu tiên và duy nhất trong lịch sử [[Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc]] thụ phong cấp bậc [[Đại tướng]], theo thứ tự là:[[Túc Dụ]], [[Từ Hải Đông]], [[Hoàng Khắc Thành]], [[Trần Canh]], [[Đàm Chính]], [[Tiêu Kính Quang]], [[Trương Vân Dật]], [[La Thụy Khanh]], [[Vương Thụ Thanh]], [[Hứa Quang Đạt]]. Sau khiĐược thành lập nướcnăm 1955, quân hàm Đại tướng là cấp bậc quân sự thứ 2 sau cấp bậc [[Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,|Nguyên quânsoái]] hàmtrên Đạicấp [[Thượng tướng đượcQuân traoGiải nămphóng 1955Nhân dân Trung Quốc|Thượng tướng]], được trao cho 10 lãnh đạo quân sự xuất chúng của Quân Giải phóng Nhân dân đã tham gia [[Cải cách ruộng đất]], [[Chiến tranh Trung-Nhật]], [[Quốc-Cộng nội chiến lần thứ hai]]. ĐồngTuy thờinhiên, cũngchỉ thụsau phong chođó 10 năm, [[NguyênCách soáimạng CộngVăn hòahóa]] bùng nổ, chế độ [[quân hàm Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa|nguyên soáiQuốc]] bị bãi bỏ, nhiều tướng lĩnh cao cấp bị thanh trừng và bức hại. Năm 1988, hệ thống quân hàm được khôi phục, bấy giờ chỉ còn là 2 tướng lĩnh còn sống cấp Đại tướng còn sống, nhưng mang quân hàm mới với danh xưng Nhất cấp Thượng tướng (一级上将). Tuy nhiên, từ đó trở đi, không có quân nhân nào được phong quân hàm này cho tới khi bị bãi bỏ hoàn toàn năm 1994. Hiện tại, cấp bậc Thượng tướng là cấp bậc cao cấp nhất của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
 
== Lịch sử ==
Vào ngày [[27/ tháng 9/]] năm 1955, tại cuộc họp lần thứ 22 của [[Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc]] lần thứ nhất thông qua nghị quyết cấp quân hàm Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Chu Ân Lai, [[Thủ tướng Quốc vụ viện]], đã ra lệnh thụ phong 10 đại tướng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. Chiếu theo quy định quân hàm, có 10 đại tướng, trong đo có 7 đại tướng chung, 1 Đô đốc/ Hải quân Đại tướng ([[Tiêu Kính Quang]]), 1 Công an Đại tướng ([[La Thụy Khanh]]), 1 Thiết giáp Đại tướng ([[Hứa Quang Đạt]]). Sau khi lực lượng an ninh công cộng bị bãi bỏ năm 1957, còn 8 đại tướng chung, 1 Đại tướng Hải quân, và 1 Thiết giáp Đại tướng. Mặc dù Không quân có Đại tướng Không quân, nhưng không ai được thụ phong Đại tướng Không quân.
 
Mỗi tướng được vinh danh với Huân chương Bát Nhất hạng nhất, Huân chương Tự do hạng nhất và Huân chương Giải phóng hạng nhất.