Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giao hưởng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Thế kỷ 19: thêm thông tin
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{1000 bài cơ bản}}[[Tập tin:Hòa nhạc.jpg|nhỏ|phải|250px|[[Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam]] trong buổi hòa nhạc tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội]]
'''Giao hưởng''' là các tác phẩm lớn trong nền âm [[Nhạc cổ điển|nhạc cổ điển phương Tây]], thường được viết cho [[Dàn nhạc giao hưởng|dàn nhạc giao hưởng]]. Thuật ngữ "giao hưởng" bắt nguồn từ tận thời [[Hy Lạp cổ đại]] và từng mang nhiều nét nghĩa khác nhau. Đến cuối thế kỷ 18, "giao hưởng" mới được hiểu như ta biết ngày nay: một tác phẩm thường với nhiều ''chương'' (hay ''phần'') riêng biệt, thườngphổ biến là bốn, với chương đầu tiên được viết ở dạng [[sonata]]. Một dàn nhạc chơi giao hường thường gồm có [[Bộ dây|bộ dây]] ([[violin]], [[viola]], [[cello]] và [[Contrebasse|contrabass]]), [[Bộ đồng|bộ đồng]], [[Bộ gỗ|bộ gỗ]] (hay khí gỗ), và [[Bộ gõ (giao hưởng)|bộ gõ]] với khoảng 30 nhạc công. Bản giao hưởng thường được ghi dưới dạng một bản tổng phổ, tức là bản nhạc với tất cả các phần của tất cả nhạc cụ. Các nhạc sĩ chơi trong dàn nhạc thì chỉ cần bản nhạc cho phần nhạc cụ của riêng họ. Một số ít bản giao hưởng cũng chứa cả phần [[Thanh nhạc|thanh nhạc]] (phần lời hát) bên cạnh phần [[Khí nhạc|khí nhạc]] (phần của nhạc cụ), ví dụ: như [[Giao hưởng số 9 (Beethoven)|Bảnbản giao hưởng số 9]] của [[Ludwig van Beethoven|Beethoven]]).
 
== Nguồn gốc ==
Trong tiếng Anh, từ ''symphony'' (nghĩa là "giao hưởng") có nguồn gốc từ chữ συμφωί (''symphonia'') trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "sự đồng điệu hoặc phối hợp của âm thanh" hoặc "buổi hòa nhạc với giọng hát hoặc nhạc cụ". Thuật ngữ συμφωί lại xuất phát từ chữ σύμφωνος (''symphōnos'') với nghĩa là "hòa hợp".<ref name="OED">{{Citation|title=Oxford English Dictionary|edition=online version|contribution=Symphony|contribution-url=http://www.oed.com/view/Entry/196292?redirectedFrom=symphony#eid|subscription=yes}}</ref> Trước khi dùngđược sử dụng để chỉ một thể loại tác phẩm âm nhạc như ta hiểu hiệnngày tạinay thì từ này có rất nhiều nghĩa khác nhau.
[[Tập tin:Schutz.jpg|nhỏ|281x281px|[[Heinrich Schütz]], một nhà soạn nhạc quan trọng của Đức, tác giả của ''Symphoniae sacrae'']]
Trong nhạc lý cuối thời Hy Lạp và [[Trung Cổ|Trung cổ]], từ này được sử dụng để nói đến khái niệm "thuận tai", tráiđối ngượcnghĩa với δδφω (diaphōnia), có nghĩa là "nghịch tai".<ref name="Brown2001">{{Citation|first=Howard Mayer|last=Brown|authorlink=Howard Mayer Brown|year=2001|contribution=Symphonia|title=[[The New Grove Dictionary of Music and Musicians]]|edition=Second|editors=[[Stanley Sadie]] and [[John Tyrrell (musicologist)|John Tyrrell]]|place=London|publisher=Macmillan Publishers|ref=harv}}</ref> Vào thời [[Trung Cổ|Trung cổ]] và sau đó, từ ''symphonia'' trong tiếng Latin lại được sử dụng để mô tả các loại nhạc cụ khác nhau, đặc biệt là những nhạc cụ có khả năng tạo ra nhiều âm thanh cùng một lúc. <ref name="Brown2001" /> [[Isiđôrô|Thánh Isidore củaxứ Seville]] là người đầu tiên sử dụng từ ''symphonia'' để chị một loại cái trống hai đầu. Khoảng năm 1155 đến 1377, từ ''symphonie'' trong tiếng Pháp được để chỉ ''organistrum'' hay [[Đàn hurdy-gurdy|đàn ''hurdy-gurdy'']]. Ở nước Anh thời trungTrung cổ, từ ''symphony'' được sử dụng theo cả hai nghĩa trên, còn đến thế kỷ 16, từ này muốnlại nóidùng đếnđể chỉ [[Đàn dulcimer|đàn dulcimer]]. Trong tiếng Đức, ''symphonie'' là một thuật ngữ để chỉ [[Đàn spinet|đàn spinet]] và [[Virginals|đàn virginal]] nói chung từ cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.<ref>{{cite book|first=Sybil|last=Marcuse|year=1975|title=Musical Instruments: A Comprehensive Dictionary|edition=Revised|place=New York|isbn=0-393-00758-8|publisher=W. W. Norton|ref=harv|page=501}}</ref>
 
Với nghĩa "giao hưởng" (nhiều âm thanh cùng hòa hợp với nhau), từ này bắt đầu xuất hiện trong tựa đề của một số tác phẩm của các nhà soạn nhạc thế kỷ 16 và 17, có thể kể đến như [[Giovanni Gabrieli]] với ''Sacrae symphoniae'' và ''Symphoniae sacrae'', ''liber secundus'', xuất bản lần lượt vào năm 1597 và 1615; [[Adriano Banchieri]] với ''Eclesiastiche sinfonie, dette canzoni in aria francese, per sonare, et cantare'', op. 16, xuất bản năm 1607; [[Lodovico Grossi da Viadana]] với ''Sinfonie musicali'', op. 18, xuất bản năm 1610; và [[Heinrich Schütz]] với ''Symphoniae sacrae'', op. 6, và ''Symphoniarum sacrarum secunda Pars,'' op. 10, xuất bản vào năm 1629 và 1647, tương ứng. Ngoại trừ bộ tác phẩm của Viadana với âm nhạc hoàn toàn chỉ chơigồm bằngkhí nhạc cụ và mang tính thế tục, tất cả các bộ tác phẩm còn lại đều có phần lờithanh nhạc bên cạnh phần nhạc cụ đệm và là nhữngcác tác phẩm tôn giáo.<ref>{{cite book|last=Bowman|first=Carl Byron|year=1971|title=The Ecclesiastiche Sinfonie (Opus 16) of Adriano Banchieri (1568–1634)|edition=Ph.D. diss.|oclc=605998103|place=New York|publisher=New York University|ref=harv|page=7}}</ref><ref name="LaRue2001">{{Citation|last1=LaRue|first1=Jan|last2=Bonds|first2=Mark Evan|last3=Walsh|first3=Stephen|last4=Wilson|first4=Charles|year=2001|contribution=Symphony|title=[[The New Grove Dictionary of Music and Musicians]]|edition=Second|editors=[[Stanley Sadie]] and [[John Tyrrell (musicologist)|John Tyrrell]]|place=London|publisher=Macmillan Publishers|ref=harv}}</ref>
Trong nhạc lý cuối thời Hy Lạp và [[Trung Cổ|Trung cổ]], từ này được sử dụng để nói đến khái niệm "thuận tai", trái ngược với δδφω (diaphōnia), có nghĩa là "nghịch tai".<ref name="Brown2001">{{Citation|first=Howard Mayer|last=Brown|authorlink=Howard Mayer Brown|year=2001|contribution=Symphonia|title=[[The New Grove Dictionary of Music and Musicians]]|edition=Second|editors=[[Stanley Sadie]] and [[John Tyrrell (musicologist)|John Tyrrell]]|place=London|publisher=Macmillan Publishers|ref=harv}}</ref> Vào thời Trung cổ và sau đó, từ ''symphonia'' trong tiếng Latin lại được sử dụng để mô tả các nhạc cụ khác nhau, đặc biệt là những nhạc cụ có khả năng tạo ra nhiều âm thanh cùng một lúc. <ref name="Brown2001" /> Isidore của Seville là người đầu tiên sử dụng từ ''symphonia'' để chị một loại cái trống hai đầu. Khoảng năm 1155 đến 1377, từ ''symphonie'' trong tiếng Pháp để chỉ ''organistrum'' hay [[Đàn hurdy-gurdy|đàn ''hurdy-gurdy'']]. Ở nước Anh thời trung cổ, từ ''symphony'' được sử dụng theo cả hai nghĩa trên, còn đến thế kỷ 16, từ này muốn nói đến đàn dulcimer. Trong tiếng Đức, ''symphonie'' là một thuật ngữ để chỉ [[Đàn spinet|đàn spinet]] và [[Virginals|đàn virginal]] nói chung từ cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.<ref>{{cite book|first=Sybil|last=Marcuse|year=1975|title=Musical Instruments: A Comprehensive Dictionary|edition=Revised|place=New York|isbn=0-393-00758-8|publisher=W. W. Norton|ref=harv|page=501}}</ref>
 
VàoSang thế kỷ 17, trongvào phần lớn [[Thời kỳ Baroque|thời kỳ Baroque]], thuật ngữ ''symphony'' và ''sinfonia'' đã được sử dụng cho một loạt các tác phẩm khác nhau, bao gồm cả các bản nhạc được chơi trong các vở [[opera]], [[sonata]] và [[concerto]]. Giao hưởng lúc này không đứng độc lập mà thường là một phần của một tác phẩm lớn hơn. Vào thế kỷ 18, ''opera sinfonia'', hay ''khúc dạo đầu kiểu Ý'' có cấu trúc ba chương tương phản điển hình: nhanh-chậm-nhanh, giống như trong một điệu nhảy. Cấu trúc điển hình này thường được coi là tiền thân trực tiếp của các bản giao hưởng sau này. Vào thời điểm này, các thuật ngữ "[[Nhạc dạo đầu|khúc dạo đầu]]", "symphony" và "sinfonia" được coi là đồng nghĩa hoàn toàn với nhau.<ref name="LaRue2001" />
Với nghĩa "giao hưởng" (nhiều âm thanh cùng hòa hợp với nhau), từ này bắt đầu xuất hiện trong tựa đề của một số tác phẩm của các nhà soạn nhạc thế kỷ 16 và 17, có thể kể đến như [[Giovanni Gabrieli]] với ''Sacrae symphoniae'' và ''Symphoniae sacrae'', ''liber secundus'', xuất bản lần lượt vào năm 1597 và 1615; [[Adriano Banchieri]] với ''Eclesiastiche sinfonie, dette canzoni in aria francese, per sonare, et cantare'', op. 16, xuất bản năm 1607; [[Lodovico Grossi da Viadana]] với ''Sinfonie musicali'', op. 18, xuất bản năm 1610; và [[Heinrich Schütz]] với ''Symphoniae sacrae'', op. 6, và ''Symphoniarum sacrarum secunda Pars,'' op. 10, xuất bản vào năm 1629 và 1647, tương ứng. Ngoại trừ bộ tác phẩm của Viadana với âm nhạc hoàn toàn chỉ chơi bằng nhạc cụ và mang tính thế tục, tất cả các bộ tác phẩm còn lại đều có phần lời bên cạnh nhạc cụ đệm và là những tác phẩm tôn giáo.<ref>{{cite book|last=Bowman|first=Carl Byron|year=1971|title=The Ecclesiastiche Sinfonie (Opus 16) of Adriano Banchieri (1568–1634)|edition=Ph.D. diss.|oclc=605998103|place=New York|publisher=New York University|ref=harv|page=7}}</ref><ref name="LaRue2001">{{Citation|last1=LaRue|first1=Jan|last2=Bonds|first2=Mark Evan|last3=Walsh|first3=Stephen|last4=Wilson|first4=Charles|year=2001|contribution=Symphony|title=[[The New Grove Dictionary of Music and Musicians]]|edition=Second|editors=[[Stanley Sadie]] and [[John Tyrrell (musicologist)|John Tyrrell]]|place=London|publisher=Macmillan Publishers|ref=harv}}</ref>
 
Khác với các tác phẩm từ thế kỷ 19 đến ngày nay, vào thế kỷ 17, các tác phẩm viết cho các dàn nhạc cụ lớn không chỉ định chính xác nhạc cụ nào sẽ chơi phần nào. Khi các nhà soạn nhạc từ thế kỷ 17 viết tác phẩm, họ hy vọng rằng những tác phẩm này sẽ được trình diễn bởi bất kỳ nhóm nhạc sĩ nào có sẵn. Chẳng hạn, ở thế kỷ 19, phần bassline (phần đệm) trong bản nhạc được chỉ định được chơi bởi cello, [[Contrebasse|contrebass]] và các nhạc cụ cụ thể khác thì ở các tác phẩm của thế kỷ 17, phần [[Continuo basso|continuo basso]] cho ''sinfonia'' sẽ không chỉ định nhạc cụ nào sẽ chơi phần đó. Tác phẩm có thể được trình diễn với một nhóm continuo basso nhỏ chỉ gồm một cello và đàn [[harpsichord]]. Tuy nhiên, nếu mànphần trình diễn được đầu tư nhiều hơn và cần có âm thanh lớn hơn, nhóm continuo basso có thể bao gồm nhiều nhạc cụ chơi hợp âm (harpsichord, [[lute]], v.v.) và một loạt các nhạc cụ bass như cello, contrebass, bass viol hoặc thậm chí là [[Kèn serpent|kèn serpent]], một trong những nhạc cụ bộ gỗ đầu tiên.
Vào thế kỷ 17, trong phần lớn [[Thời kỳ Baroque|thời kỳ Baroque]], thuật ngữ ''symphony'' và ''sinfonia'' đã được sử dụng cho một loạt các tác phẩm khác nhau, bao gồm cả các bản nhạc được chơi trong các vở [[opera]], [[sonata]] và [[concerto]]. Giao hưởng lúc này không đứng độc lập mà thường là một phần của một tác phẩm lớn hơn. Vào thế kỷ 18, ''opera sinfonia'', hay ''khúc dạo đầu kiểu Ý'' có cấu trúc ba chương tương phản điển hình: nhanh-chậm-nhanh, giống như trong một điệu nhảy. Cấu trúc điển hình này thường được coi là tiền thân trực tiếp của các bản giao hưởng sau này. Vào thời điểm này, các thuật ngữ "[[Nhạc dạo đầu|khúc dạo đầu]]", "symphony" và "sinfonia" được coi là đồng nghĩa hoàn toàn với nhau.<ref name="LaRue2001" />
 
Khác với các tác phẩm từ thế kỷ 19 đến ngày nay, vào thế kỷ 17, các tác phẩm viết cho các dàn nhạc cụ lớn không chỉ định chính xác nhạc cụ nào sẽ chơi phần nào. Khi các nhà soạn nhạc từ thế kỷ 17 viết tác phẩm, họ hy vọng rằng những tác phẩm này sẽ được trình diễn bởi bất kỳ nhóm nhạc sĩ nào có sẵn. Chẳng hạn, ở thế kỷ 19, phần bassline (phần đệm) trong bản nhạc được chỉ định được chơi bởi cello, [[Contrebasse|contrebass]] và các nhạc cụ cụ thể khác thì ở các tác phẩm của thế kỷ 17, phần [[Continuo basso|continuo basso]] cho ''sinfonia'' sẽ không chỉ định nhạc cụ nào sẽ chơi phần đó. Tác phẩm có thể được trình diễn với một nhóm continuo basso nhỏ chỉ gồm một cello và đàn [[harpsichord]]. Tuy nhiên, nếu màn trình diễn được đầu tư nhiều hơn và cần có âm thanh lớn hơn, nhóm continuo basso có thể bao gồm nhiều nhạc cụ chơi hợp âm (harpsichord, [[lute]], v.v.) và một loạt các nhạc cụ bass như cello, contrebass, bass viol hoặc thậm chí là [[Kèn serpent|kèn serpent]], một trong những nhạc cụ bộ gỗ đầu tiên.
 
== Thế kỷ 18 ==
[[Tập tin:Joseph Haydn.jpg|nhỏ|[[Joseph Haydn]], người được mệnh danh là "cha đẻ của Giao hưởng"<ref>Rosen, Charles (1997). ''The classical style: Haydn, Mozart, Beethoven,'' tr. 43-54</ref>]]
Trong thế kỷ 18, "giao hưởng được phát triển với cườngtốc độ đáng kinh ngạc".{{sfnp|LaRue|2001|loc=§I.2}} Thể loại này đóng một vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống công cộng, kểbao gồm cả trong các nhà thờ,{{sfnp|LaRue|2001|loc=§I.2}}nhưng nguồn hỗ trợ đặc biệt mạnh mẽ cho các buổi biểu diễn giao hưởng chínhlại[[Giới quý tộc|tầng lớp quý tộc]]. Ở Vienna[[Viên]], có lẽ là địa điểm quan trọng nhất ở châu Âu trong sự phát triển của các bản giao hưởng, "không nói quá khi ở đây có hàng trăm gia đình quý tộc ủng hộ cho các cơ sở âm nhạc, họ thường chia thời gian qua lại giữa ViennaViên và cơ ngơi của mình [những nơi khác trong Đế chế]"{{sfnp|LaRue|2001|loc=§I.10}}Vì kích thước bình thường của dàn nhạc vào thời điểm đó là tương đối nhỏ, rất nhiều các cơ sở âm nhạc giống như trên có thể trình diễn được các bản giao hưởng. Khi còn trẻ, [[Joseph Haydn]] đảm nhận công việc đầu tiên là làm chỉ đạo âm nhạc cho [[Gia đình Morzin|gia đình Morzin]] vào năm 1757. Khi cùng gia đình Morzin đến ViennaViên, ông nhận ra rằng: dàn nhạc riêng của ông chỉ là một phần nhỏ trong một sân khấu âm nhạc sôi động và cạnh tranh, với nhiều nhà quý tộc tài trợ cho nhiều buổi hòa nhạc với các dàn nhạc riêng của họ.<ref>{{cite book|last=Carpani|first=Giuseppe|authorlink=Giuseppe Carpani|title=Le Haydine, ovvero Lettere su la vita e le opere del celebre maestro Giuseppe Haydn|year=1823|edition=Second|page=66}}</ref>
 
Các tác giả LaRue, Bonds, Walsh và Wilson đã lần theo dòng phát triển của dàn nhạc giao hưởng vào thế kỷ 18.{{sfnp|LaRue|2001|loc=§I.4}} Ban đầu, các bản giao hưởng là chỉ được viết cho bộ dây, tức là chỉ được viết cho bốn phần: violin thứ nhất, violin thứ hai, viola và phần đệm (phần đệm có thể được chơi bởi cello hoặc [[Contrebasse|contrabass]], và có thể có cả bassoon; phần đệm được chơi thấp hơn [[Quãng tám|quãng tám]] so với phần chính). Đôi khi, các nhà soạn nhạc ban đầu thậm chí còn bỏ qua phần của viola, thành ra các bản giao hưởng chỉ có ba phần. Đôi khi, giao hưởng cũng có cả phần basso continuo-được chơi bởi bassoon, harpsichord hoặc một nhạc cụ chơi hợp âm khác.{{sfnp|LaRue|2001|loc=§I.4}}
 
Bổ sung đầu tiên cho dàn nhạc đơn giản này là một cặp [[Kèn cor|kèn cor]], đôi khi là một cặp [[Ô-boa|kèn oboe,]] và rồi là cả kèn cor và kèn oboe với nhau. Trong suốt thế kỷ này, những nhạc cụ khác cũng dần được thêm vào dàn nhạc: [[Sáo (nhạc cụ)|sáo]] (đôi khi dùng để thay thế kèn oboe), và thêm cả các phần riêng cho [[Pha-gốt|bassoon]], [[clarinet]], và [[Trumpet|kèn trumpet]] và [[Trống định âm|trống định âm]] (timpani). Vì mỗi tác phẩm có một tính chất khác nhau nên các công cụ bổ sung sẽ được thêm vào tùy lúc để phù hợp với bản nhạc. Cuối thế kỷ này, dàn nhạc với quy mô đầy đủ nhất, được sử dụng cho các bản giao hưởng quy mô lớn, gồm có bộ dây như đề cập ở trên, từng đôi nhạc cụ của bộ gỗ (sáo, oboe, clarinet, bassoon), một cặp kèn cor và trống định âm. Nhạc cụ với phím để chơi phần continuo (như harpsichord hoặc [[Dương cầm|piano]]) cũng có thể xuất hiện.
 
Phong cách "giao hưởng "Ý", thường được sử dụng trong khúc dạo đầu và khúc nhạc vàogiữa giờ nghỉ (''entr'acte'') trong các nhà hát opera, với ba chương: nhanh-chậm-nhanh đã trở thành tiêu chuẩn cho các tác phẩm thể loại này. Đến thế kỷ 18, các bản giao hưởng bốn chương lại dần nổiphổ lênbiến,<ref>{{cite book|first1=James|last1=Hepokoski|first2=Warren|last2=Darcy|year=2006|title=Elements of Sonata Theory : Norms, Types, and Deformations in the Late-Eighteenth-Century Sonata|url=https://books.google.com/books?id=fHasTaNQmK0C&dq=mozart+four+movements+three+movements+symphony&source=gbs_navlinks_s|publisher=[[Oxford University Press]]|page=320|isbn=0198033451|ref=harv}}</ref> ta sẽ biết khi đọc đoạn sau đây. Bảncòn giao hưởng với ba chương dần tàn đi. Khoảng một nửa trong số ba mươi bản giao hưởng đầu tiên của Haydn có ba chương; <ref>Count taken from Graham Parkes, "The symphonic structure of ''Also sprach Zarathustra'': a preliminary outline," in {{cite book|first=James|last=Luchte|year=2011|title=Nietzsche's Thus Spoke Zarathustra: Before Sunrise|publisher=Bloomsbury Publishing|isbn=1441118454}}. Excerpts on line at [https://books.google.com/books?id=UFBS4Kpz9ooC&pg=PT24&lpg=PT24&dq=haydn+four+movements+three+movements+symphony&source=bl&ots=9c9h-UiF73&sig=SOnba4k4vSRAEoiXgqprfGEc_og&hl=en&sa=X&ved=0CEcQ6AEwCGoVChMIlKioyPz3xwIVAzGICh0eEQBP#v=onepage&q=haydn%20four%20movements%20three%20movements%20symphony&f=false].</ref> và vào lúc Mozart còn trẻ, giao hưởng ba chương vẫn là chuẩn mực cho ông, có lẽ dưới ảnh hưởng của người bạn [[Johann Christian Bach]].<ref>The conjecture about the child Mozart's three-movement preference is made by Gärtner, who notes that Mozart's father [[Leopold Mozart|Leopold]] and other older composers already preferred four. See {{cite book|first=Heinz|last=Gärtner|year=1994|title=John Christian Bach: Mozart's Friend and Mentor|publisher=Hal Leonard Corporation|isbn=0931340799}} Excepts on line at [https://books.google.com/books?id=7mw7Mw9GgSgC&pg=PA216&dq=mozart+four+movements+three+movements+symphony&hl=en&sa=X&ved=0CDgQ6AEwBGoVChMIlLO2vP73xwIVwTOICh2X1A6b#v=onepage&q=mozart%20four%20movements%20three%20movements%20symphony&f=false].</ref> Một ví dụ nổi bật cuối cùng của bản giao hưởng Cổ điển với ba chương là giao hưởng "Prague" của Mozart, viết vào năm 1787.
 
Giao hưởng với bốn chương nổi lên trong thời kỳ này có cấu trúc điển hình như sau:<ref>{{cite book|last=Jackson|first=Timothy L.|year=1999|chapter=Tchaikovsky, Symphony no. 6 (Pathétique)|title=Cambridge Music Handbooks|location=Cambridge|publisher=[[Cambridge University Press]]|isbn=0-521-64111-X|page=26}}</ref><ref>{{cite book|last=Stein|first=Leon|authorlink=Leon Stein|year=1979|title=Structure & Style: The Study and Analysis of Musical Forms|edition=expanded|location=Princeton, N.J.|publisher=Summy-Birchard Music|isbn=0-87487-164-6|ref=harv|page=106}}</ref>
Hàng 29 ⟶ 30:
* Chương IV với hình thức rondo hoặc sonata, với tiết tấu allegro
 
Những biến thể trên cấu trúc này, chẳng hạn như thay đổi thứ tự của các chương nằm giữa hoặc thêm phần giới thiệu tiết tấu chậm cho chương đầu tiên, là phổ biến. Haydn, Mozart và những đương thời hạn chế sử dụng hình thức bốn chương cho nhạc giao hưởng hoặc nhạc thính phòng như tứ tấu. Những bản sonata độc tấu của [[Ludwig van Beethoven|Beethoven]] được viết ở dạng bốn chương cũng nhiều như ở dạng ba chương.<ref name="Prout1895">{{cite book|last=Prout|first=Ebenezer|authorlink=Ebenezer Prout|year=1895|title=Applied Forms: A Sequel to 'Musical Form'|url=https://books.google.com/books?id=JuQsAAAAYAAJ&printsec=frontcover&dq=Prout+%22Applied+Forms:+A+Sequel+to+'Musical+Form'+%22&hl=en&sa=X&ved=0CB4Q6AEwAGoVChMI_uzyu-X3xwIVwVyICh3C2wbC#v=onepage&q=Prout%20%22Applied%20Forms%3A%20A%20Sequel%20to%20'Musical%20Form'%20%22&f=false|edition=third Augener's Edition, no. 9183. London: Augener. Facsimile reprint,|place=New York|publisher=AMS Press, 1971|isbn=0-404-05138-3|ref=harv|page=249}}</ref>
 
Những bản giao hưởng đầu tiên ra đời quanh các thành phố như [[Milano|Milan]], Vienna và [[Mannheim]]. Trường phái ở Milan có trung tâm là [[Giovanni Battista Sammartini]] và có thể kể đến các đại diện như [[Antonio Brioschi]], [[Ferdinando Galimberti]] và [[Giovanni Battista Lampugnani]]. Những nhà soạn nhạc đi đầu trong diễn giải giao hưởng tại Vienna có thể kể đến như [[Georg Christoph Wagenseil]], [[Wenzel Raimund Birck]] và [[Georg Matthias Monn]]; các nhà soạn nhạc giao hưởng Vienna quan trọng sau đó thì có [[Johann Baptist Wanhal]], Carl Ditters von Dittersdorf và [[Leopold Hofmann]]. Trường phải Mannheim có điển hình là [[Johann Stamitz]].<ref>{{Citation|authors=Anonymous|contribution=Mannheim School|contribution-url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/362596/Mannheim-school|title=[[Encyclopædia Britannica]]|ref=harv}}</ref>