Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chứng khó học toán”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 25:
Biểu hiện sớm nhất của chứng khó học toán thường là một khiếm khuyết trong khả năng nhận biết, từ khi nhìn liếc qua mà không đếm, xem có bao nhiêu đối tượng có trong một nhóm nhỏ. Người lớn có thể phân chia 3 hoặc 4 đối tượng.<ref>{{cite journal | title = Subitizing and visual counting in children with problems in acquiring basic arithmetic skills | journal = Optometry & Vision Development | year = 2008 | first1 = B | last1 = Fischer |first2= C |last2= Gebhardt |first3= K |last3= Hartnegg, | volume = 39 | issue = 1 | pages = 24–9 | url = http://www.lookingforlearning.com/abstracts/ovd39-1.pdf}}</ref>Trẻ em từ 5 tuổi có thể nhận biết số lượng khoảng 6 đối tượng. đặc biệt là khi nhìn vào súc sắc. Tuy nhiên, trẻ em với hội chứng khó học toán cũng có thể nhận biết số lượng của vài đối tượng nhưng ngay cả khi để nhận biết chính xác cũng mất nhiều thời gian hơn để xác định được số lượng so với các bạn cùng tuổi. Chứng khó học toán thường có biểu hiện khác nhau ở các độ tuổi khác nhau. Chứng khó học toán có xu hướng trở lên rõ ràng hơn khi trẻ trưởng thành hơn; các triệu chứng cũng có thể xuất hiện sớm ở trẻ em chưa tới tuổi đến trường. <ref>Team, T. U. (n.d.). Understanding Dyscalculia. Retrieved September 02, 2017, from '''''https://www.understood.org/en/learning-attention-issues/child-learning-disabilities/dyscalculia/understanding-dyscalculia'''''</ref>Các triệu chứng thường gặp của chứng khó học toán là gặp khó khăn với phép tính nhẩm trong toán học, gặp khó khăn phân tích thời gian và xem đồng hồ kim, khó khăn khi sắp xếp các chuỗi số thường chúng sẽ đếm ngón tay để nhớ thêm số<ref>[["What Does Dyscalculia Look Like in Adults"|https://www.additudemag.com/dyscalculia-in-adults-symptoms-signs-and-statistics/]] ''. ADDitude''. 2017-02-15. Retrieved 2018-05-02</ref>
 
===Sự tồn tại ở trẻ nhỏem===
Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu tin rằng chứng khó học toán là một rối loạn dai dẳng, bằng chứng về sự tồn tại của chứng khó học toán vẫn còn lẫn lộn..<ref>{{cite journal|last1=Kucian|last2=von Aster|title=Developmental Dyscalculia|journal=European Journal of Pediatrics|date=2015|volume=174|issue=1|pages=1–13|doi=10.1007/s00431-014-2455-7|pmid=25529864}}</ref> Ví dụ, trong một nghiên cứu của Mazzocco và Myers (2003), các nhà nghiên cứu đánh giá trẻ em trên nhiều biện pháp và chọn biện pháp phù hợp nhất của chúng như là tiêu chuẩn chẩn đoán tốt nhất của họ: một sự cắt giảm đáng kể 10 phần trăm trên TEMA-2.<ref>{{cite journal|last1=Mozzocco|last2=Myers|title=Complexities in identifying and defining mathematics learning disability in the primary school-age years|journal=Annals of Dyslexia|date=2003|volume=53|issue=1|pages=218–253|doi=10.1007/s11881-003-0011-7|pmid=19750132|pmc=2742419}}</ref> Ngay cả với tiêu chí hết sức mình, họ phát hiện chẩn đoán chứng khó học toán cho trẻ em theo chiều dọc đã không tồn tại; Chỉ có 65% học sinh đã từng được chẩn đoán trong suốt bốn năm được chẩn đoán trong ít nhất hai năm. Tỷ lệ trẻ em được chẩn đoán trong hai năm liên tiếp tiếp tục giảm. Không rõ liệu đây là kết quả của những đứa trẻ bị chẩn đoán sai cải thiện về toán học và nhận thức về không gian khi chúng tiến triển như bình thường hay các đối tượng cho thấy sự cải thiện được chẩn đoán chính xác, nhưng có dấu hiệu của sự khiếm khuyết trong học tập không liên tục.