Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thời kỳ Asuka”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Trantrongnhan100YHbot (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Én bạc AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 86:
Từ năm [[600]] đến năm [[659]], Nhật Bản gửi 7 sứ thần đến [[nhà Đường]] ở Trung Quốc. Nhưng trong vòng 32 năm tiếp theo, trong giai đoạn Nhật Bản đang hoàn thành hệ thống luật pháp dựa trên thư tịch Trung Hoa ủa mình, họ không gửi ai đi. Mặc dù Nhật Bản cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, họ đã gửi 11 sứ thần đến [[Tân La|Silla]], và theo [[Nihon Shoki]] thì Silla đã gửi 17 sứ bộ đến Nhật Bản dưới triều [[Thiên Hoàng Temmu]] và [[Thiên Hoàng Jito|Nữ Thiên Hoàng Jito]]. Gia tộc thống trị Yamato và [[Bách Tế|Baekje]] có quan hệ thân tình với nhau, và Yamato đã gửi hải quân của mình đến cứu viện Baekje, năm [[660]]-[[663]], chống lại cuộc xâm lăng của [[Tân La|Silla]] và [[nhà Đường]] (xem [[trận Baekgang]]).
 
Thay vì chu du đến Trung Quốc, rất nhiều pháp sư từ [[Tam Quốc (Triều Tiên)|Tam Quốc Triều Tiên]] được gửi đến Nhật Bản. Kết quả là, điều này cũng tình cờ thúc đẩy việc Nhật gửi quân cứu viện [[Bách Tế|Baekje]].<ref name="Sansom">Sansom, George (1958). 'A History of Japan to 1334'. Stanford, California: Stanford University Press. 47-49.</ref> Một vài pháp sư nổi tiếng đến từ Triều Tiên như {{Nihongo|[[Eji]]|慧慈 (''||hanviet=Tuệ Từ'')|kyu=|hg=|kk=|}}, {{Nihongo|[[Ekan]]|慧灌 (''||hanviet=Tuệ Quán'')|kyu=|hg=|kk=|}}, {{Nihongo|[[Eso]]|慧聡(''||hanviet=Tuệ Thông'')|kyu=|hg=|kk=|}} and {{Nihongo|[[Kanroku]]|觀勒 (''||hanviet=Quan Lặc'')|kyu=|hg=|kk=|}}. Eji, đến từ [[Cao Câu Ly|Goguryeo]] là thầy giáo của [[Thánh Đức Thái tử|Thái tử Shotoku]], và cố vấn cho ông về chính trị.<ref>[http://www.bookrags.com/Prince_Sh%C5%8Dtoku Encyclopedia of World Biography on Shotoku Taishi]</ref>
 
=== Torai-jin ===
Những người nhập cư Trung Quốc và Triều Tiên đã trở thành tự nhiên trong xã hội Nhật Bản cổ đại được gọi là {{nihongo|[[Torai-Jin|torai-jin]]|渡来人 (''||hanviet=Độ Lai Nhân'')|kyu=|hg=|kk=|}}. Họ truyền bá nhiều khía cạnh ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống của mình cho cư dân bản địa. Người Nhật đối xử tốt với những ''torai-jin'' này vì triều đình Yamato đánh giá cao tri thức và văn hóa của họ. Theo ghi chép trong {{nihongo|''Shinsen-shōjiroku''|新撰姓氏録||hanviet=Tân Soạn Tính Thị Lộc|kyu=|hg=|kk=|}}, danh sách tên các gia đình quý tộc được Triều đình Yamato biên soạn năm [[815]], một phần tư các gia đình quý tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Triều Tiên. 163 trong số 1182 cái tên là từ Trung Quốc, và 154 là từ bán đảo Triều Tiên (104 từ [[Bách Tế|Baekje]], 41 từ [[Cao Câu Ly|Goguryeo]], và 9 từ [[Tân La|Silla]] và [[Gaya]]).<ref name="Beasley">{{chú thích sách| url=http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN0520225600&id=9AivK7yMICgC&pg=PA32&lpg=PA32&dq=history+of+japan+and+korea&vq=korea&sig=V5gQx0zzYDUvUYqeYjnYRbMoCG8| title=The Japanese Experience: A Short History of Japan| first=W. G.| last=Beasley| publisher=University of California Press| id=ISBN 0-520-22560-0| year=Aug 31, 2000}}</ref>
 
Tuy nhiên, những người nhập cư này nói chung bị coi là thuộc giai tầng thấp hơn trong hệ thống ''[[Kabane]]'' xếp hạng rất nhiều gia tộc là thành viên của triều đình. Họ thường được xếp vào bậc "Atai", "Miyatsuko", hay "Fubito", trong khi các thành viên của các gia đình thống trị như Soga, Mononobe, và Nakatomi được xếp vào hạng "Omi" hay "Muraji".
 
=== Những người nhập cư ===
Một ví dụ về các gia tộc có tổ tiên ngoài Nhật Bản là gia tộc Yamatonoaya (''東漢氏'') (''Đông Hán thị’’), là hậu duệ của [[Hán Linh Đế]]. Người đứng đầu gia tộc này là Achi-no-Omi (''阿智使主'') (''A Trí Sứ Chủ''). Theo [[Nihon Shoki|Nihongi]], dưới triều Nhật hoàng Kimmei, [[gia tộc Hata]] (''秦氏'') (''Tần Thị’’), hậu duệ của [[Tần Thủy Hoàng]], đã mang đến nghề nuôi tằm dệt vải. Gia tộc Kawachino-Fumi clan (''西文氏'') (''Tây Văn Thị''), là hậu duệ của [[Hán Cao Tổ]], dạy cho triều đình Yamato văn tự Trung Hoa, theo ''Shinsen-shōjiroku''. Gia tộc Takamoku là hậu duệ của [[Tào Phi]].<ref>{{chú thích web| url=http://homepage1.nifty.com/k-kitagawa/data/shoji.html| title="Shinsen-shōjiroku" shizoku ichiran 『新撰姓氏録』氏族一覧|publisher=transcribed by Kazuhide Kitagawa|accessdate = ngày 16 tháng 10 năm 2006}}</ref><ref>{{chú thích web| url=http://www.myj7000.jp-biz.net/clan/03/03008.htm| title=Nihon no myōji 7000 ketsu seishi ruibetsu taikan Takamuko uji 日本の苗字7000傑 姓氏類別大観 高向氏| accessdate = ngày 16 tháng 10 năm 2006}}</ref> {{nihongo|[[Takamuko no Kuromaro]]|高向玄理 (''||hanviet=Cao Hướng Huyền Lý'')|kyu=|hg=|kk=|}} là một thành viên chủ chốt đã viết nên [[Cải cách Taika]]. {{nihongo|[[Tori Busshi]]|止利仏師 (''||hanviet=Chi Lợi Phật Sư'')|kyu=|hg=|kk=|}}, cũng đến từ Trung Quốc, là một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất thời Asuka.
 
Năm [[660]], một trong Tam Quốc Triều Tiên, [[Bách Tế|Baekje]], mất về tay [[Tân La|Silla]] và [[nhà Đường]]. Sau đó, rất nhiều nạn dân Baekje đã chạy loạn đến Nhật Bản. Triều đình Yamato đã đón nhận hoàng tộc và nạn dân Baekje. Hoàng gia Baekje được [[Thiên hoàng|Nhật hoàng]] ban cho cái tên "[[Kudara no Konikishi]]" (百済王, ''Bách Tề Vương'').