Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tam quốc diễn nghĩa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 180.93.163.24 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Tuanminh01
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 168:
''Tam quốc diễn nghĩa'' được xếp là 1 trong "[[Tứ đại danh tác]]" của Trung Hoa. Tác giả La Quán Trung đã nói rõ chủ đề ngay từ tên tác phẩm: ông dùng lịch sử của ba quốc gia thời Tam quốc để diễn giải về ''“nghĩa”'' (tư tưởng chính nghĩa) của con người, lấy đó làm chủ đề chính. ''Tam quốc diễn nghĩa'' bao hàm ý nghĩa cao siêu của tiêu chuẩn đạo đức, luân lý truyền thống Trung Hoa, ngoài ra còn có đạo lý ''“Nhân quả báo ứng”'', ''“Thuận theo tự nhiên”'', ''“Người tính không bằng trời tính”''. Tác phẩm không chỉ là tiểu thuyết đơn thuần, mà còn ẩn chứa những bài học răn dạy về [[đạo đức]], những tấm gương được mọi người tôn kính thông qua những câu chuyện lịch sử. Bởi vì nắm chắc được điểm này cho nên ''Tam quốc diễn nghĩa'' mới có thể ''“trường thịnh không suy”'', đi sâu vào lòng người đọc suốt nhiều thời đại như vậy, không chỉ ở Trung Quốc và cả ở [[Nhật Bản]], [[Triều Tiên]], [[Việt Nam]]...
 
''Tam quốc diễn nghĩa'' là câu chuyện gần một trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối, đó là do ngòi bút có khuynh hướng rõ ràng của [[La Quán Trung]]. Tác giả đứng về phía [[Thục Hán]], lên án [[Tào Ngụy]], còn [[Tôn Ngô]] chỉ là lực lượng trung gian. Những nhân vật của Thục Hán như hoàng đế [[Lưu Bị]] với tư tưởng ''"trọng Nhân hòa, lấy dân làm gốc"'', gia đình thừa tướng [[Gia Cát Lượng]] suốt 3 đời phò tá triều đình với tấm lòng ''"cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi"'', các đại tướng [[Quan Vũ]], [[Trương Phi]], [[Triệu Vân]], [[Khương Duy]] võ nghệ xuất chúng lại tận trung vì nước, bao phen xả thân để bảo vệ cơ nghiệp nhà Hán; [[Cam phu nhân]] chỉ là nữ nhi mà thấu hiểu đạo nghĩa, [[My phu nhân]] sẵn lòng hy sinh bảntính thânmạng để cứu dòng dõi Lưu Bị... Mỗi nhân vật chính của nhà Thục Hán đều được khắc họa với chính khí lẫm liệt, là những tấm gương về trung thần nghĩa sĩ, con [[hiếu thảo]], vợ [[trinh tiết|tiết trinh]]. Nhà Thục Hán là sự kết tinh nguyện vọng của quần chúng nhân dân về một vị vua xuất thân hàn vi, biết thấu hiểu nỗi khổ và yêu thương quý trọng nhân dân, một triều đình thực hiện "nhân chính", một xã hội giàu đạo đức với những tấm gương tôi trung vợ tiết, một đất nước thống nhất và hoà bình.
 
Đặc biệt trong bối cảnh tác phẩm ra đời, khi [[nhà Nguyên]] của ngoại tộc Mông Cổ đang thống trị Trung Hoa, tư tưởng ''"ủng Lưu phản Tào"'' còn thể hiện khát vọng của nhân dân có một vị vua kế thừa dòng máu [[người Hán]] (Lưu Bị là dòng dõi hoàng thất [[nhà Hán]]), đánh đuổi triều đình ngoại tộc để giành lại giang sơn cho [[người Hán|dân tộc Hán]] (một kiệt tác sân khấu ra đời trong cùng thời kỳ cũng mang tư tưởng này, đó là [[Con côi nhà họ Triệu]]).
 
Tuy ''Tam quốc diễn nghĩa'' có một số tình tiết hư cấu về [[lịch sử]], nhưng về nét chính, các bộ chính sử Trung Quốc cũng công nhận triều đình Thục Hán có rất nhiều nhân vật đáng khen ngợi: vua nhà Thục Hán là [[Lưu Bị]] vốn có xuất thân hàn vi, thuở nhỏ phải đan dép cỏ kiếm sống nên rất thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, ông từ hai tay trắng gây dựng cơ đồ nhờ sự trợ giúp trung thành của các tướng sĩ, khi lên ngôi lại thi hành chính sách khoan hòa với nhân dân. Gia đình Thừa tướng Thục Hán là [[Gia Cát Lượng]] thì suốt 3 đời đều hết lòng tận tụy vì nước và rất liêm khiết, ''"trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi"''. Đại tướng [[Khương Duy]] là tổng chỉ huy quân đội Thục Hán cũng sống rất giản dị, ''"ăn uống rất mực tiết kiệm, trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng nghe thấy tiếng đàn hát"''. Cha con [[Phó Đồng]] - [[Phó Thiêm]] thì ''"thụ mệnh lúc lâm nguy, cha con nối đời trung nghĩa"'' mà tráng liệt hy sinh. Những yếu tố đó rất gần gũi với hình mẫu một vị vua lý tưởng, một triều đình chân chính đối với nhân dân Trung Quốc thời phong kiến, nước Thục Hán mất rồi mà người dân địa phương đến cả nghìn năm sau vẫn còn hoài niệm và lập đền thờ. Do vậy, các câu chuyện dân gian về thời Tam Quốc có xu hướng ca ngợi Lưu Bị và nhà Thục Hán, căm ghét kẻ thù của ông là điều tất yếu, và xu hướng ''"ủng Lưu phản Tào"'' đã là tư tưởng chung của đại đa số nhân dân Trung Quốc từ trước cả khi tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa ra đời. Trong sách sử đời [[Bắc Tống]] đã có ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: ''“Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại trận thì khoái chí reo mừng"''. Bút ký ấy cho thấy: ngay cả trước khi Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, nhân dân Trung Quốc đã có xu hướng ''"ủng Lưu phản Tào"'', họ yêu mến [[Lưu Bị]] và căm ghét [[Tào Tháo]]. Chính sự kế thừa nguyên vẹn tư tưởng đó đã giúp tác phẩm được đông đảo nhân dân Trung Hoa đón nhận, họ như thấy được thái độ yêu - ghét của chính bản thân ở ngay trong tác phẩm.
 
Tác phẩm là sự kết hợp giữa sáng tác tập thể của các nghệ sỹ dân gian với sáng tác riêng của [[nhà văn]], mà phần cốt lõi là sáng tác truyền miệng được tích lũy qua nhiều thế hệ. Những tác phẩm truyền miệng là kết tinh của trí tuệ tập thể, thể hiện một cách rõ nét ý thức chính trị xã hội, ý thức đạo đức luân lý và ý thức thẩm mỹ của đa số quần chúng nhân dân, trải qua nhiều năm được [[La Quán Trung]] gọt giũa, đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật cũng như triết lý nhân sinh. Những phẩm chất tốt đẹp mà nhân dân ca ngợi như: Trung hậu nhân từ; Hào phóng chính trực; Anh dũng ngoan cường; Đoàn kết tương trợ; Thông minh mưu trí; Quên mình vì nghĩa... được các nghệ sỹ dân gian tập trung vào nhân vật Lưu Bị và nhà Thục Hán. Mặt khác, các nghệ sỹ dân gian cũng đem những thói hư tật xấu mà nhân dân căm ghét như: Hung ác tàn bạo; Nham hiểm gian trá; Tự tư giả đối, Hống hách ngang ngược; Hoang dâm vô độ... gán cho các nhân vật [[Tào Tháo]], [[Đổng Trác]], [[Viên Thiệu]]... Có thể nói một cách không khoa trương rằng "Tam quốc diễn nghĩa" là một kho báu về thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá trị và quan niệm thẩm mỹ của quần chúng nhân dân thời cổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân cơ bản, khiến "Tam quốc diễn nghĩa" được đông đảo quần chúng nhân dân ưa thích qua nhiều thế kỷ.