Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng giáp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Hoàng giáp''' là một loại (gọi là giáp) danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời xưa. Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ [[thi Đình]], còn gọi là '''tiến sĩ xuất thân''' ([[tiếng Hoa]] 進士出身). Vì đứng thứ hai trong hệ thống các loại học vị [[tiến sĩ]], trên đệ tam giáp, nhưng dưới đệ nhất giáp, tức '''tam khôi''' ([[trạng nguyên]], [[bảng nhãn]], [[thám hoa]]) nên còn gọi là ''Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân''. Đến [[nhà Nguyễn]], triều đình thường bỏ không lấy hạng đệ nhất giáp, đặc biệt là Trạng nguyên, nên người đỗ hoàng giáp xếp trên cùng có thể coi là [[đình nguyên]]. Hạng tiến sĩ xuất thân được quy định lần đầu tiên ỏ Việt Nam vào tháng 8 âm lịch năm 1484 (niên hiệu [[Hồng Đức]] 15), cùng với hạng đệ nhất giáp và đệ tam giáp. Người đề xuất việc phân hạng (giáp) các tiến sĩ nho học là thượng thư Bộ Lễ [[Quách Đình Bảo]], nhân việc vua [[Lê Thánh Tông]] sai khắc bia tiến sĩ. Trước đó kể từ thời nhà Lý đến đầu nhà Hậu Lê chưa có 3 loại tiến sĩ kể trên, mà các triều đại mới chỉ xếp danh sách các tiến sĩ nho học trong mỗi khoa thi thành 2 bảng: chính bảng và phụ bảng. Trong chính bảng từ thời nhà Trần có xếp 3 danh hiệu: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa ở 3 vị trí đầu tiên. Lê Thánh Tông chuẩn tấu của Quách Đình Bảo, đổi: tam khôi thành [[tiến sĩ cập đệ]], các tiến sĩ còn lại trong chính bảng của mỗi khoa thi thành tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp), còn loại tiến sĩ trong phụ bảng gọi là [[đồng tiến sĩ xuất thân]].
 
Loại này không chia bậc, chỉ xếp thứ tự, ai đỗ cao hơn được xếp ở trên. Khi bổ quan được lĩnh chức có hàm tòng thất phẩm.
Dòng 19:
==Xem thêm==
*[[Khoa bảng]]
 
== Chú thích ==
<references />
 
{{Khoa bảng}}
{{stub}}