Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Paul Mauriat”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up using AWB
bs
Dòng 28:
Người ta biết đến ông nhiều nhất sau khi bản phối khí ''[[L'amour est bleu|L'Amour est bleu]]'' ("Love Is Blue") (do André Popp soạn) của ông năm [[1968]] đứng đầu bảng xếp hạng của [[Hoa Kỳ]]. Paul Mauriat cùng dàn nhạc của ông rất được yêu thích ở Nhật Bản và Hàn Quốc.
 
Năm 1957, Mauriat phát hành đĩa EP (đĩa mở rộng) ''Paul Mauriat'' gồm 4 bản nhạc''.'' Giai đoạn 1959-1964, ông thu âm một số album cùng hãng thu âm Bel-Air dưới cái tên '''Paul Mauriat et Son Orchestre''', cũng như nhiều nghệ danh khác như Richard Audrey, Nico Papadopoulos, Eduardo Ruo, và Willy Twist để thể hiện tốt hơn tính quốc tế trong các bản thu của mình. Trong giai đoạn này, ông cũng phát hành vài bản thu cùng ''Les Satellites'' mà trong đó ông đã bố trí một cách sáng tạo hòa âm giọng người hát vào trong các album ''Slow Rock and Twist'', (1961), ''A Malypense'' (1962) and ''Les Satellites Chantent Noel'' (1964).
Paul Mauriat mất tại [[Perpignan]], thọ 81 tuổi.
 
Mauriat sáng tác nhạc cho một số bộ phim Pháp (cũng được phát hành cùng hãng Bel-Air), bao gồm ''Un Taxi Pour Tobrouk'' (1961), ''Horace 62'' (1962) và ''Faites Sauter La Banque'' (1964).
 
Ông viết ca khúc đầu tay cùng với André Pascal. Năm 1958, họ đạt giải thưởng le Coq d'or de la Chanson Française cùng với bản ''Rendez-vous au Lavandou.'' Dưới nghệ danh Del Roma, Mauriat đã có bản hit quốc tế đầu tiên là ''Chariot,'' được ông viết cùng với những người bạn Frank Pourcel (cùng sáng tác), Jacques Plante (người viết lời) và Raymond Lefèvre (chỉ huy dàn nhạc). Tại Mỹ, ca khúc được thu âm dưới cái tên "I will follow him" bởi Little Peggy March và đã đứng vị trí số 1 tại bảng xếp hạng Billboard hot 100 trong 3 tuần năm 1963. Năm 1992, ca khúc gây chú ý khi xuất hiện trong bộ phim Sister Act có Whoopi Goldberg tham gia diễn xuất. Gần đây, Eminem có dùng 1 trích đoạn của bài hát vào ca khúc của mình mang tên Guilty Conscience.
 
Giai đoạn 1967 đến 1972, ông viết nhiều ca khúc cùng với André Pascal cho Mireille Mathieu. Một số như ''Mon Crédo'' (bán được 1,335,000 ), ''Viens dans ma rue'', ''La première étoile'', ''Géant'', etc. và đóng góp vào 130 ca khúc cho Charles Aznavour.
 
Năm 1965, Mauriat thành lập dàn nhạc đại hòa tấu của mình (Le Grand Orchestra de Paul Mauriat) và phát hành hàng trăm bản thu cũng như các tuyển tập cùng hãng Philips trong 28 năm tiếp theo. Năm 1994, ông ký hợp đồng với công ty thu âm Nhật Bản Pony Canyon, ông đã thu âm lại những bản hit hay nhất cũng như viết các sáng tác mới. Ông ghi âm nhiều album tại cả Paris và London, ông cũng sử dụng sáng tác của một số nhạc sỹ cổ điển Anh trong các bản thu này.
 
Vào cuối năm 1967, ông thu lại ca khúc “L’amour est bleu” (“Love Is Blue”) của André Popp/Pierre Cour. Sang năm 1968, bản này đã trở thành bản hit số 1 ở Hoa Kỳ với 5 tuần ở vị trí số 1 trên các bảng xếp hạng. Hai single khác của ông cũng xuất hiện trên các bảng xếp hạng Hoa Kỳ - “Love in Every Room/Même si tu revenais” (thu âm năm 1965; leo lên bảng xếp hạng năm 1968) và bản nhạc phim trong bộ phim "Chitty, Chitty, Bang, Bang". "Love is blue" là bản nhạc duy nhất giữ vị trí quán quân bảng xếp hạng âm nhạc Mỹ mà lại được thu âm ở Pháp và cũng là bản nhạc không lời hiếm hoi giành được vị trí này (sau bản hit "Telstar" của Tornados năm 1962. Thành công của bản nhạc cũng như của album chứa bản nhạc này (Blooming Hits) đã khiến Mauriat trở thành một ngôi sao quốc tế.
 
Năm 1969, ông bắt đầu chuyến lưu diễn đầu tiên của mình cùng dàn nhạc đại hòa tấu đến các quốc gia như Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brazil và các nước Mỹ Latin khác.
 
Năm năm 70 và 80, ông phát hành tất cả các album thể hiện lòng tôn kính cội nguồn âm nhạc của mình. "Paul Mauriat joue Chopin", "Classics in the Air" (volumes 1,2,3) gồm các bản nhạc cổ điển như "Grande valse brillante" của Chopin, “Toccata và Fugue in D Minor” của Bach, Canon của Pachelbel, đánh dấu bước chuyển mình của Mauriat.
 
Paul Mauriat được biết đến rộng rãi ở Nhật từ đầu thập niên 70. Ông là nghệ sỹ nước ngoài duy nhất có 2 buổi biểu diễn cháy vé trong cùng 1 ngày tại nhà hát nổi tiếng Nippon Budokan ở Tokyo.
 
Trong các thập kỷ tiếp theo, một số sáng tác của ông được dùng trong các chương trình truyền hình và phim ngắn ở Soviet chẳng hạn bộ phim hoạt hình Polygon (1977), "Thế giới động vật" (V Mire zhivotnykh) và "Kinopanorama".
 
Mauriat nghỉ biểu diễn năm 1998. Ông có buổi biểu diễn cuối cùng mang tên "Buổi hòa nhạc chia tay" (Sayonara concert) tại Osaka Nhật Bản, nhưng dàn nhạc của ông tiếp tục lưu diễn vòng quanh thế giới. Nhạc công piano cũ của ông là Giles Gambus tiếp tục chỉ huy dàn nhạc vào năm 200 và có những chuyến lưu diễn thành công ở Nhật, Trung Quốc và Nga. Gambus đã làm việc cùng Mauriat trong hơn 25 năm. Vào năm 2005, nhạc sỹ cổ điển Pháp Jean-Jacques Justafré chỉ huy dàn nhạc trong chuyến lưu diễn tại Nhật Bản và Hàn Quốc.
 
Paul Mauriat mất tại [[Perpignan]], thọ 81 tuổi. Sau khi Mauriat qua đời, dàn nhạc đại hòa tấu giải thể.
 
==Sự nghiệp và giải thưởng==