Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngô Tam Quế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
'''Ngô Tam Quế''' ([[tiếng Hán]]: 吳三桂, [[bính âm]]: ''Wú Sānguì'', [[Wade-Giles]]: ''Wu San-kuei''; [[tự danh|tự]]: '''Trường Bạch''' 長白 hay '''Trường Bá''' 長伯; [[1612]] – [[2 tháng 10]] năm [[1678]]), là Tổng binh cuối triều [[nhà Minh|Minh]], sau đầu hàng và trở thành tướng của [[nhà Thanh]].
==Cuộc đời==
Trước đây, '''Ngô Tam Quế''' từng dưới quyền của [[Viên Sùng Hoán]] (1584-1630),. sauSau khi viên tướng này bị vua nhà Minh là [[Minh Tư Tông |Sùng Trinh]] giết chết, Ngô Tam Quế dần dần được trao nhiệm vụ làm Tổng binh trấn giữ [[Sơn Hải Quan (quận)|Sơn Hải Quan]] (nay thuộc tỉnh [[Hà Bắc (Trung Quốc)| Hà Bắc]], [[Trung Quốc]]).
 
Khoảng thời gian này, các nhóm khởi nghĩa chống lại nhà Minh đã dần lớn mạnh, trong số ấy có lực lượng của [[Lý Tự Thành]]. Sau những thắng lợi liên tiếp, Lý Tự Thành lên ngôi Hoàng đế ở [[Tây An]] ([[Thiểm Tây]]), và rồi đánh chiếm luôn [[Bắc Kinh]] vào ngày 26 tháng 5 năm 1644<ref name="NHL">Nguyễn Hiến Lê, ''Sử Trung Quốc'' (tập 2), tr.163-164.</ref>.
 
Trong khi đó, Ngô Tam Quế chỉ huy 10 [[vạn]] quân đang đóng ở Sơn Hải Quan. Nhiệm vụ của lực lượng này vốn là để phòng ngự sự xâm nhập của quân Thanh, nhưng khi nghe Bắc Kinh bị huy hiếp, Ngô Tam Quế liền dẫn binh về cứu. Dọc đường, nghe tin kinh đô đã thất thủ, vua Minh ([[Sùng Trinh]] Hoàng đế) đã chết, lại nghe Lý Tự Thành dụ dỗ, nên Ngô Tam Quế đã định hàng. Nhưng khi hay ái thiếp của mình là [[Trần Viên Viên]] bị Tự Thành chiếm đoạt, ông nổi giận đổi ý, đến xin hợp tác với quân Mãn Thanh dưới quyền chỉ huy của [[Đa Nhĩ Cổn]]<ref>Chi tiết này căn cứ theo ''Trung Quốc sử lược'' của GS. Phan Khoang, tr. 296.</ref>.
Lý Tự Thành đem quân đánh Ngô Tam Quế, nhưng bị liên quân Ngô Tam Quế và Mãn Thanh đánh bại,. doDo đó ông phải rút khỏi Bắc Kinh sau 43 ngày đêm làm chủ chốn đế đô này. Kể từ đó, nhà Thanh chính thức làm chủ được Trung Quốc.
 
Khi nhà Minh ở Bắc Kinh đã bị lật đổ, các quan lại ở [[Nam Kinh]] bèn tôn một người trong hoàng tộc là Phúc Vương lên làm vua, lập nên [[nhà Nam Minh]]... Tuy nhiên, trước sự tấn công mạnh mẽ của quân Thanh, vị vua cuối cùng của Nam Minh là [[Quế Vương]] (Chu Do Lang) phải chạy sang [[Miến Điện]]. Ngô Tam Quế đem quân truy kích buộc vua Miến Điện phải giao Quế Vương, rồi đưa về [[Côn Minh]] (thủ phủ của tỉnh [[Vân Nam]]) treo cổ, triều Nam Minh diệt vong (1661).
 
Khi mới thành lập, triều Thanh đã phong vương cho một số tướng lĩnh [[người Hán|Hán tộc]] có công, trong số đó có Thượng Khả Hỉ (được phong là Bình Nam vương, trấn thủ [[Quảng Đông]]), Cánh Kế Mậu (được phong là Tĩnh Nam vương, trấn thủ [[Phúc Kiến]]), Ngô Tam Quế (được phong Bình Tây vương, trấn thủ [[Vân Nam]])...
 
Ba lãnh địa đó, gọi chung là “Tam phiên”, và trong ba phiên ấy, mạnh nhất là thế lực của Ngô Tam Quế. Sau xét thấy, sự tồn tại của những lãnh địa này, không có lợi cho nền thống trị của [[nhà Thanh]], vì vậy năm 1673, vua [[Khang Hi]] đã ra lệnh bãi bỏ các phiên.
 
Bị mất quyền lợi, ngay năm ấy, Bình Tây vương Ngô Tam Quế nổi dậy chống lại nhà Thanh và hô hào hai phiên kia cùng phối hợp. Phong trào này buổi đầu đã lôi cuốn được sự hưởng ứng của nhiều địa phương trong cả nước, như Trịnh Kinh từ [[Đài Loan]] cũng đem quân qua tấn công vùng ven biển hai tỉnh [[Chiết Giang]] và [[Phúc Kiến]]. Tuy nhiên, vì các lực lượng chống Thanh không có hành động thống nhất, nên ít năm sau thì bị dẹp tan. Năm 1676, hai phiên họ Cánh và họ Thượng đã đầu hàng.
 
Trong tình thế rất khó khăn, năm 1678, Ngô Tam Quế vẫn xưng làm Hoàng đế, nhưng chỉ được 5 tháng thì chết. Hôm đó, làvào ngày 2 tháng 10 năm 1678, ông thọ 66 tuổi.
 
Cháu của ông là Ngô Thế Phiên nối ngôi, nhưng thế lực đã rất suy yếu. Năm 1681, quân nhà Thanh tấn công và chiếm được Vân Nam, Thế Phiên phải tự tử. Như vậy, cuộcCuộc nổi dậy của “Tam phiên” đến đây thì bị dập tắt.
 
==Tài liệu liên quan==