Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Hồ Chí Minh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 63:
==== Hướng Đông Nam ====
[[Quân đoàn 2, Quân đội nhân dân Việt Nam|Quân đoàn 2]] ban đầu gồm các [[Sư đoàn 325, Quân đội nhân dân Việt Nam|Sư đoàn bộ binh 325]] – Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm (Trị Thiên), [[Sư đoàn 304, Quân đội nhân dân Việt Nam|304]] – Sư đoàn trưởng Nguyễn Ân (đoàn Vinh Quang). Lữ đoàn pháo binh 164; Lữ đoàn tăng thiết giáp 203; Sư đoàn phòng không 673; Lữ đoàn công binh 219; Trung đoàn đặc công 116. Tổng số xe chở hàng, chở người của Quân đoàn 2 lên tới 2.267 chiếc, Trong đó có 54 xe tăng, 35 xe thiết giáp, 223 xe kéo pháo, 87 khẩu pháo 130 mm và 105 mm; 136 pháo cao xạ. Do được phối thuộc Sư đoàn 3 - Sư đoàn trưởng Trần Bá Khuê (Đoàn Sao Vàng) từ Quân khu 5 và một số đơn vị rút từ Quân khu 4, tổng quân số của Quân đoàn lên đến hơn 40.000 người (trước đó là 32.418 người).<ref>Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2004).trang 237</ref><ref>Chiến dịch Hồ Chí Minh qua hồi ức của các vị tư lệnh và chính ủy. tr 416, 430.</ref>. Sư đoàn 324 (
:*Tư lệnh: Thiếu tướng [[Nguyễn Hữu An]]
Dòng 160:
Do tiếp cận chiến trường muộn hơn các đơn vị khác, phải đến 16 giờ chiều 27 tháng 4, Quân đoàn 1 - [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] mới đưa được những đơn vị chủ lực của mình bước vào chiến đấu. Trên mũi tấn công chủ yếu, sư đoàn 320B - được tăng cường tiểu đoàn xe tăng 66 của Lữ đoàn 202, một đại đội xe tăng độc lập, một tiểu đoàn công binh công trình, một tiểu đoàn pháo 130 mm, có cụm pháo của lữ đoàn pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) yểm hộ - đã tấn công chi khu Tân Uyên và sân bay Ông Lĩnh, đánh thông đoạn phía đông đường 16, mở đường đột phá sâu vào trung tâm Sài Gòn, tiến đến Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, một trong năm mục tiêu quan trọng nhất của chiến dịch.<ref>Lịch sử Quân đoàn 1 (1973-2004). Trang 115.</ref> Một số trận đánh ác liệt nổ ra tại chi khu quân sự Tân Uyên, ngã ba Bình Chuẩn, Thuần Giáo, Búng, Tân Hiệp. Tiểu đoàn bảo an 316 Quân lực Việt Nam Cộng hòa và một trung đội cảnh sát dã chiến tại Tân Uyên đã dựa vào công sự vững chắc, cầm cự được suốt đêm 27 tháng 4. Trên đường tiến, Sư đoàn 320B chỉ để lại một số lực lượng đủ để cô lập các chốt chặn dọc đường của các tiểu đoàn bảo an 317, 321, 346; còn các lực lượng chủ yếu đều nhanh chóng vượt sông Sài Gòn, tiến vào nội đô. Đến sáng 28 tháng 4, viên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 316 và 35 binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn sống sót đã đầu hàng. Đường tấn công của Quân đoàn 1 - [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] (đường 16) từ Tân Uyên qua Búng đến Lái Thiêu đã được mở thông.<ref>Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tập VIII. trang 422-423</ref><ref>Lịch sử Quân đoàn 1 (1973-2004). Trang 117-118.</ref>
Tại mũi thứ yếu, phát hiện sư đoàn 312 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đang bao vây căn cứ Phú Lợi, tiến công Lai Khê; tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh sư đoàn 5 Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng chiến đoàn 7, có xe tăng yểm hộ cố giải tỏa đường 13 và 14, đồng thời tăng cường cho cứ điểm An Lợi nhưng khi đoàn xe di chuyển đến khu vực Tam Giáo thì rơi đúng vào mũi tấn công của chủ lực sư đoàn 312, có lữ đoàn xe tăng 202 (thiếu) yểm hộ. Sau khi bị bắn cháy ba chiếc xe đi đầu, chiến đoàn 7 Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị tách khỏi chủ lực sư đoàn 5 ở Lai Khê và toàn bộ Sư đoàn 5 cũng bị cô lập ở phía Bắc Thủ Dầu Một. Trên đường vào nội đô, Quân đoàn 1 còn phải khắc phục các bãi mìn, vật cản chống xe tăng, xe cơ giới, có chỗ rộng đến 100 m, dài hơn 200 m. Đến 15 giờ ngày 29 tháng 4, sau khi gỡ hết các mìn chống tăng, mở đường vòng tránh và sử dụng tù binh dẫn đường, Quân đoàn 1 đã tập kết trước cứ điểm Lái Thiêu và chỉ còn cách trung tâm Sài Gòn - Gia Định khoảng 15 km.<ref>Lịch sử Quân đoàn 1 (1973-2004). Trang 119.</ref>
|