Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Tương Dực”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 80:
Ngày [[4 tháng 12]] cùng năm ấy, Giản Tu công Lê Oanh tự lập làm [[Hoàng đế]], lấy niên hiệu là '''Hồng Thuận''' (洪順). Ông lấy ngày sinh làm ''Thiên Bảo thánh tiết'' (天保聖節), tự xưng là '''Nhân Hải Động chủ''' (仁海洞主).
 
==Trị vì ==
=== Hưng trị ===
Vừa khi lên ngôi, Tương Dực đã trọng thưởng các công thần. Ông ra chỉ ban thưởng như sau:
:''[[Nguyễn Văn Lang]] từ Nghĩa quận công (義郡公) lên làm Nghĩa quốc công (義國公); [[Lê Quảng Độ]] từ Thiệu quận công (紹郡公) lên làm Thiệu quốc công (紹國公); [[Lê Phụ]] (黎輔) từ Lượng quận công (諒郡公) lên làm Lượng quốc công (諒國公); [[Lê Bá Lân]] (黎伯璘) từ Uy quận công (威郡公) lên làm Uy quốc công (威國公); [[Trịnh Duy Đại]] (鄭維岱) từ [[bộ Hộ|Hộ bộ]] [[thượngThượng thư]] lên làm Văn quận công (文郡公); [[Trịnh Hựu]] (鄭侑) từ Thụy Dương hầu (瑞陽侯) lên làm Thọ quận công (壽郡公); [[Lê Mậu Chiêu]] (黎荗昭) từ phòPhòđôĐô úy lên làm Diên quận công (延郡公); [[Nguyễn Hoằng Dụ]] được ban làm An Hòa hầu (安和侯); [[Trịnh Duy Sản]] làm Mỹ Huệ hầu (美惠侯); [[Nguyễn Bá Tuấn]] (阮伯俊) từ Tổng binh chiêm sự [[Thanh Hóa]] thành [[bộ Lễ|Lễ bộ]] [[thượngThượng thư]], tước Do Lễ bá (由禮伯); [[Lê Tung]] từ Thanh Hóa thừaThừa tuyên sứ thành [[bộ Lại|Lại bộ]] [[thượngThượng thư]], tước Đôn Thư bá (敦書伯); [[Nguyễn Thì Ung]] (阮時雍) từ Thanh Hóa thamTham chính thành Ngự sử đài Đô ngự sử, tước Lương Văn bá (良文伯); [[Đàm Thận Huy]] (譚慎徽) được phong [[bộ Hình|Hình bộ]] [[thượngThượng thư]], Hàn Lâmlâm viện thịThị độc, chưởng quản Hàn Lâmlâm viện; [[Lương Đắc Bằng]] (梁得朋) được làm [[bộ Lại|Lại bộ]] [[tả thị[[Thị lang]].
 
Bàn đặt quan đề[[Đề lĩnh]], có các chức [[Chưởng đề lĩnh]], [[Đồng đề lĩnh]][[Phó đề lĩnh]], trông nom việc quân ở bốn mặt thành, chức trách là tuần phòng ở Kinh sư, canh phòng các nơi, tìm bắt [[kẻ gian]].
 
Trong những năm đầu cầm quyền, Tương Dực cũng có vài đóng góp thể hiện sự cố gắng vực dậy đất nước đã suy tàn, nhất là trong lĩnh vực khoa cử. Năm [[1511]], ông tổ chức kỳ [[thi Hội]], đến kỳ [[thi Đình]] thì ông đích thân ra đề văn hỏi về đạo trị quốc. Ông cho trùng tu [[Quốc Tử Giám]], dựng lại [[bia tiến sĩ]] tỏ rõ sự khuyến khích hiền tài. Đông các đạiĐại học sĩ [[Đỗ Nhạc]] đã soạn bài ký ở Quốc Tử giám ca ngợi công đức của Tương Dực Đế:
:''[[Hoàng đế]] thông minh xứng đáng bậc chí tôn, sáng suốt làm gương cả nước, khôi phục quy mô xây dựng cơ nghiệp của [[Lê Thái Tổ|Thái Tổ Cao Hoàng]], mở rộng nền móng văn giáo thịnh trị của [[Lê Thánh Tông|Thánh Tông Thuần Hoàng]]. Sáng vầng sao Khuê, ngang trời dọc đất thì có tập [[Bảo thiên thanh hạ]]; mở gương trị giáo mẫu mực xưa nay thì có tập [[Quang thiên thanh hạ]]. Thánh học ngày càng cao minh, thánh đức ngày càng thuần tuýtúy. Hơn nữa, đến [[nhà Thái Học]] hỏi về đạo trị nước, ra nơi điện đình thi chọn bọn học trò, then máy cổ võ lại càng chu đáo lắm. Đã sai quan chọn bọn học trò, then máy cổ võ lại càng chu đáo lắm. Đã sai quan trùng tu Quốc tử giám và làm mới nhà bia, lại nghĩ tới hai khoa [[Ất Sửu]], [[Mậu Thìn]] chưa có dựng bia, liền sai quan khắc bia soạn ký để dựng lên. Như vậy có thể thấy được cái ý tôn sùng đạo học, khuyến khích hiền tài sâu sắc dường nào!''
 
Việc [[thuế|thuế má]] thời bấy giờ cũng như mấy triều trước, nhưng không biết rõ tiền tài sản vật đồng niên thu được những gì. Đến đời Tương Dực thấy sử chép rằng trước thì thuế vàng thuế bạc đồng niên thu được: ''[[Vàng]] mười, thứ tốt gọi là "kiêm kim" 480 [[lạng|lượng]]; Vàng mười 2.883 lượng; [[Bạc]] 4.930 lượng''.
Dòng 94:
Nay, Tương Dực định lệ đổi lại mỗi năm thu được: ''Vàng mười thứ "kiêm kim" 449 lượng; Vàng mười 2.901 lượng; Bạc 6.125 lượng''. Những vàng bạc đó nộp vào kho để cho hoàng gia tiêu dùng. Còn cách thu nộp thế nào cũng không rõ.
 
Năm [[1510]], Lê Tương Dực sai [[bộ Binh|Binh bộ]] Thượng thư, Quốc tử giám nghiệp kiêm Sử quan đôĐô tổng đài [[Vũ Quỳnh]] soạn bộ ''Đại Việt thông giám thông khảo'', gọi tắt là ''[[Đại Việt thông giám]]'' hay ''Việt giám thông khảo''. ''Đại Việt thông giám'' chép theo lối biên niên các triều đại, gồm 26 quyển, chia thành Ngoại kỷ, chép từ thời [[Hồng Bàng]] đến hết [[nhà Ngô]], Bản kỷ, từ thời [[Đinh Tiên Hoàng]] đến khi [[Lê Thái Tổ]] bình định thiên hạ.<ref name="dvsktt"/> Nhà vua còn sai thiếuThiếu bảo Lễ bộ thượngThượng thư kiêm Đông các đạiĐại học sĩ, kiêm Quốc tử giám tếTế tửu tri kinh diên sự [[Lê Tung]] soạn bài tổng luận về bộ sử ấy. Theo sĩ phu thời [[nhà Nguyễn|Nguyễn]] [[Phan Huy Chú]], bộ sách này được [[Lê Nại]] đánh giá là quy mô và ''đúng với kinh, trúng với sử''. Cũng trong thời Tương DựDực, Vũ Quỳnh soạn sách ''Tứ triều bản kỷ'' (四朝本紀) chép biên niên bốn triều vua Lê Thánh Tông, [[Lê Hiến Tông|Hiến Tông]], [[Lê Túc Tông|Túc Tông]] và [[Lê Uy Mục|Uy Mục]].<ref>[[Phan Huy Chú]] (2007), ''[[Lịch triều hiến chương loại chí]]'', tập 2, Nhà xuấtXuất bản Giáo dục, các trang 389-394.</ref> Rất có thể đây là tài liệu quan trọng mà sau này nhóm [[Phạm Công Trứ]] dựa vào để hoàn tất biên soạn [[Đại Việt Sử ký Toàn thư]].
 
===Nội loạn Trần Tuân===
Ngày [[11 tháng 11]], năm [[1511]], người làng [[Quang Bị]], huyện [[Bất Bạt]] là [[Trần Tuân]] nổi loạiloạn ở vùng [[Sơn Tây]]. Bấy giờ, nhân dân các phố xá ở kinh thành náo động, đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Hoàng đế sai [[bộ Hộ|Hộ bộ]] hữu thị[[Thị lang]] [[Lê Đĩnh Chi]], cùng các quan khoa, đài đi khám xét các phố xá hàng chợ, xem người nào còn nhà ở, người nào vợ con đã về quê quán, ra lệnh cấm rất nghiêm ngặt, xử tội rất nặng những người đã cho vợ con về quê quán, dân chúng khó bè nhắc chân động tay. Những người đã để vợ con về quê, thì phần nhiều đem người khác đến, nói dối là vợ con mình để đợi sai quan tới khám xét. Đến đây, lại sai [[xá nhân]] đến tận nhà các đại thần và văn thần xem thực hư ra sao, thì thấy vợ con của 5 người là bọn [[Lê Đĩnh Chi]], [[Nguyễn Tông Thốc]], [[Nguyễn Lý Quang]] và Hàn lâm kiểmKiểm thảo [[Ngô Tuy]], Giám sát ngựNgự sử [[Trần Húc]] đều về nguyên quán. Hoàng đế sai giết bọn Đĩnh Chi ở ngã ba phường [[Đông Hà]], vì bọn Đĩnh Chi làm quan đi khám xét mà vợ con lại trốn về quê trước, cho nên xử tội.
 
Tương Dực sai Mỹ Huệ hầu [[Trịnh Duy Sản]] chỉ huy quan quân đi đánh Trần Tuân. Bấy giờ, quân của Tuân đã bức sát đến huyện [[Từ Liêm]] ([[Quốc Oai]]), quan quân bại trận, lui về đóng ở các xứ [[Đông Ngạc]], [[Nhật Chiêu]].
 
Thế quân của Tuân rất mạnh, muốn bức sát kinh thành. Nghĩa quốc công [[Nguyễn Văn Lang]] sai quân 6 vệ Điện tiền kéo thuyền [[Tiểu Thiên Quang]] xuống sông, định đưa hoàng đế ngự về [[Thanh HoáHóa]], giữ nơi hiểm yếu rồi gọi hết bọn thợ của các sở ở [[bộ Công|Công bộ]] và thợ thường ban, bày [[kỵ binh]] ở xứ [[Đông Hà]] để giữ. Đến đêm, bọn họ hoảng sợ trốn về cả. Tương Dực sai Minh Luân bá [[Lê Niệm]], Tổng tháiThái giám [[Lê Văn Huy]] và 2 người khoa văn học sinh đem [[lực sĩ]] của hai ty [[Hải Thanh]] và [[Hà Thanh]] chèo hai chiếc [[thuyền]] nhẹ ra xứ Từ Liêm để dò xét tình hình quân giặc.
 
Niệm đến chợ [[An Giang]] trước thấy phố xá bị thiêu trụi, quan quân đã bại trận rút về, vượt sông vào xã [[Quả Hối]]. Niệm lại chạy về, vào điện tâu trước mặt Tương Dực. Bấy giờ, Duy Sản bị giặc đánh bại, thủ hạ chỉ còn hơn 30 người, xé áo làm hiệu, thề cùng nhau đánh giặc. Giờ Dậu, [[Trịnh Duy Sản|Duy Sản]] thình lình xuất hiện, đột nhập vào dinh của Tuân, thấy [[Trần Tuân|Tuân]] mặc áo đỏ ngồi trên giường, liền dùng giáo đâm chết Tuân, bè đảng của Tuân đều tan chạy cả. Bấy giờ quân lính của Tuân đóng ở chỗ khác, không biết là nghịch Tuân đã chết, vẫn cứ đóng quân như trước.
 
Ngày 20, Tương Dực làm lễ tấu cáo ở [[Thái Miếu]], rồi sai Nguyễn Văn Lang đem tướng sĩ, voi ngựa của các doanh đi đánh. Bấy giờ, Duy Sản đã giết Trần Tuân, liền thừa thế bắn ba tiếng [[súng]], các quân đánh trống hò reo tiến vào, đánh tan quân giặc, đuổi theo đến các xã [[Thuỵ Hương]], [[Quả Động]], [[Đông Ngạc]], đâm chết rất nhiều. Sau này định công ban thưởng, ban phong [[Trịnh Duy Sản]] là ''Nguyên quận công'' (原郡公), những người đi theo Duy Sản đâm chết được nhiều giặc đều được trao chức đô chỉ huy đồng tri.
 
===Suy trị===
Năm [[1513]], hoàng đế [[nhà Minh|Đại Minh]] là [[Minh Vũ Tông|Vũ Tông]] sai [[Phan Huy Tăng]] (潘希曾) đi sứ, sắc phong Tương Dực làm '''An Nam quốc vương''' (安南國王). Đến khi trông thấy ông, Huy Tăng nói với người đồng hành là Nhược Thủy rằng: ''Quốc vương [[An Nam]] mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu'' (安南國王貌羙而身傾性好滛乃諸王也乱亡不久矣), nên từ đấy có lời dị gọi ông là '''Trư vương''' (豬王). Ông có bài thơ họa lại tiến sứ thần về nước.
 
Lời nói của sứ thần Đại Minh như báo hiệu cho nghiệp trị nước của Tương Dực sớm lụi tàn. Những năm về sau, ông chỉ lo xây cất nhà cửa, lâu đài, chơi bời xa xỉ truỵtrụy lạc. [[Tháng 5]] năm [[1514]], nghe lời của [[Hiệu úy]] Hữu Vĩnh, Tương Dực giết chết 15 vương công, cho gọi các cung nhân của triều trước vào cung để gian [[dâm]].
 
Năm [[1516]], hoàng đế cho đắp thành rộng cả ngàn trượng chắn ngang [[sông Tô Lịch]]. Để thể hiện uy quyền đế vương, ông sai một người thợ là [[Vũ Như Tô]] xây điện 100 nóc, xây [[Cửu Trùng Đài]]. Quân dân làm trong mấy năm trời không xong, hao tổn tiền của, chết hại nhiều người. Bỏ bê việc nước, chỉ ngày ngày du ngoạn [[Tây Hồ]], Tương Dực nghĩ ra nhiều trò quái lạ. Thói trụy lạc của Tương Dực ngày càng lộ rõ khi ông ra lệnh làm thuyền chiến thật trang hoàng lộng lẫy rồi bắt các [[Phi tần|cung nữ]] [[khỏa thân|trần truồng]], tay cầm cái chèo đánh nhịp làm đại nhạc để hoàng đế thưởng sắc.
 
Sự sa đọa của Tương Dực sách [[Đại Việt sử ký toàn thư]] đã chép:
{{Cquote|
{{Cquote|''Trước đây, vua thích làm nhiều công trình thổ mộc, đắp thành rộng lớn mấy ngàn trượng, bao quanh điện Tường Quang, quán Chân Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía đông đến phía tây bắc, chắn ngang [[sông Tô Lịch]], trên đắp hoàng thành, dưới làm cửa cống, dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến và gạch vuông xây lên, lấy sắt xuyên ngang. Lại sai làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn nữ sử [[khỏa thân|trần truồng]] chèo thuyền chơi trên [[Hồ Tây]], vua cùng chơi, lấy làm vui thích lắm. Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười.''|||[[Đại Việt sử ký toàn thư]]}}
 
== Bị hại ==