Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mạc Thái Tổ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 153:
==Cai trị==
===Chính trị - Kinh tế ===
Ngày [[15 tháng 6]] năm [[1527]], Mạc Đăng Dung xưng [[Hoàng đế]], ban lệnh đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là năm ''Minh Đức'' thứ nhất; phế truất vua [[Lê Cung Hoàng|Cung Hoàng]] làm Cung
Vào tháng 6, Đăng Dung vào kinh thành, ngự nơi chính điện, tế trời ở đàn Nam giao, dựng tôn miếu, lấy [[Hải Dương]] làm Dương Kinh, lập cung điện ở Cổ Trai; truy tôn miếu hiệu, xây dựng mộ phần
Lúc này thần dân thất vọng, cả nước hoang mang, Đăng Dung sợ lòng người nhớ vua cũ, để lại sinh biến, nên phải tuân giữ pháp độ của [[Nhà Lê]], không dám thay đổi, phủ dụ thần dân, trấn áp lòng người, che bịt mắt tai họ. Lại lập mưu tìm con cháu các nhà thế gia công thần, những người ấy phần nhiều chạy vào rừng núi, phần ẩn náu không chịu ra, kẻ tụ tập làm cướp, kẻ ra nước ngoài làm quan.<ref name="Nội p 3"/>
Năm [[1528]], Mạc Đăng Dung muốn đổi tiền làm chính lệnh mới, bèn sai đúc tiền Thông Bảo theo cách đúc tiền cũ, nhưng phần nhiều không thành. Sau lại đúc các loại tiền gián pha kẽm và sắt ban hành các xứ trong nước để thông dụng. Lấy [[Nguyễn Quốc Hiến]] làm Phò mã
Tháng 10, [[1528]], Đăng Dung cho là sau khi bình yên, chế độ dần dần lỏng lẻo, ý muốn đổi thay chấn chỉnh lại, liền sai bề tôi là Nguyễn Quốc Hiến bàn định binh chế, điền chế, lộc chế và đặt bốn vệ Hưng quốc, Chiêu vũ, Cảm y, Kim ngô, năm phủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu ty, tên quan và số lại viên, số người, số lính của các nha môn, phỏng theo quan chế triều trước. Lấy quân trấn giữ xứ [[Hải Dương]] cho lệ thuộc vào vệ Hưng quốc, quân trấn giữ xứ [[Sơn Nam]] lệ thuộc vào vệ Chiêu vũ, quân trấn xứ [[Sơn Tây]] lệ thuộc vào vệ Cẩm y, quân trấn xứ [[Kinh Bắc]] lệ thuộc vào vệ Kim ngô. Phân bổ các ty, mỗi ty đặt 1 viên
Mùa đông năm [[1529]], Mạc Đăng Dung đã làm vua được 3 năm, tự thấy mình tuổi già, bèn truyền ngôi cho con trưởng Đăng Doanh, tự xưng là [[Thái
Năm [[1530]], cháu ngoại họ Lê tên [[Lê Ý]] khởi binh ở [[Thanh Hóa]] chống lại họ Mạc, quân số vài vạn người, Mạc Đăng Dung tự
Lê Ý thất bại nhưng thổ tù các nơi vẫn không qui phục Nhà Mạc, [[Nguyễn Kim]] đóng ở [[Ai Lao]], anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chiếm cứ xứ [[Thái Nguyên]]; [[Vũ Văn Uyên]] chiếm xứ [[Tuyên Quang]], các tướng này đều danh nghĩa phục quốc. Suốt một dải ven núi các xứ Thanh, Nghệ, Tuyên, Hưng đều không theo họ Mạc.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà
Năm [[1531]],
Đến năm sau, lại mở khoa thi, lấy đỗ [[Nguyễn Thiến]], Bùi Vinh, Ngô Sơn Khoái... tổng cộng 27 người tất cả. Năm [[1535
Ra lệnh cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi. Ai vi phạm thì cho phép ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, [[trâu]] [[bò]] thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà
Ở [[Ai Lao]], con nhà dòng dõi công thần
===Ngoại giao với Nhà Minh===
====Việc cắt đất lần thứ nhất====
Sau khi lên ngôi được 1 năm, tức năm [[1528]], Mạc Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với [[Nhà Minh]] với nội dung là ''con cháu họ Lê không còn ai thừa tự nữa, dặn cho đại thần họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng''. Vua Minh không tin, sai người dò la tin tức, ngầm lập con cháu họ Lê lên. Mạc Đăng Dung sai người trả lời bằng lời lẽ văn hoa, đem nhiều vàng bạc đút lót. Đến khi sứ giả [[Nhà Minh]] về, mật tâu với vua Minh là con cháu [[Nhà Lê]] đã hết, đã ủy thác cho họ Mạc, người trong nước đều theo phục cả. Vua Minh mắng sứ giả, Đăng Dung sợ vua Minh hỏi tội liền lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng, bạc cùng châu báu vật lạ. Vua Minh nhận, từ đó Bắc Nam thông hiếu đi lại.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà
▲Sau khi lên ngôi được 1 năm, tức năm 1528, Mạc Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với Nhà Minh với nội dung là ''con cháu họ Lê không còn ai thừa tự nữa, dặn cho đại thần họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng. Vua Minh không tin, sai người dò la tin tức, ngầm lập con cháu họ Lê lên. Mạc Đăng Dung sai người trả lời bằng lời lẽ văn hoa, đem nhiều vàng bạc đút lót. Đến khi sứ giả Nhà Minh về, mật tâu với vua Minh là con cháu Nhà Lê đã hết, đã ủy thác cho họ Mạc, người trong nước đều theo phục cả. Vua Minh mắng sứ giả, Đăng Dung sợ vua Minh hỏi tội liền lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng, bạc cùng châu báu vật lạ. Vua Minh nhận, từ đó Bắc Nam thông hiếu đi lại.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, tập 3, tr 112</ref>
====Về việc cắt đất lần thứ hai====
Năm [[1529]], bề tôi cũ của triều Lê là Trịnh Ngung, Trịnh Ngang sang [[Nhà Minh]] tố cáo với Nhà Minh việc họ Mạc. Mạc Đăng Dung đem nhiều vàng bạc đút lót để phá
Theo [[Trần Trọng Kim]] trong sách [[Việt Nam sử lược]]: ''Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua [[Nhà Minh]] có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao thiệp với nước kia thì thường là người ta mượn tiếng "vị nghĩa" mà làm những việc "vị lợi" mà thôi.''<ref name=autogenerated2 />▼
▲Năm 1529, bề tôi cũ của triều Lê là Trịnh Ngung, Trịnh Ngang sang Nhà Minh tố cáo với Nhà Minh việc họ Mạc. Mạc Đăng Dung đem nhiều vàng bạc đút lót để phá, việc không thành, hai anh em chết ở Trung Quốc. Năm 1533, An thanh hầu [[Nguyễn Kim]] lập vua Lê Trang Tông ở Ai Lao, sai Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Nhà Minh, Duy Liêu tâu rằng, Mạc Đăng Dung tiếm loạn, chiếm kinh thành ngăn trở đường đi nên từ lâu bỏ việc cống. Vua Minh hay tin, bèn sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm tổng đốc quân vụ, Binh bộ thượng thư Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc đăng Dung thì thưởng cho quan tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất nhân dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết. Năm 1536, Nguyễn Kim lại sai Trịnh Viên sang Nhà Minh tâu trình. Năm 1538, triều Mạc sai Nguyễn Văn Thái sang Nhà Minh dâng biểu xin hàng và xin được phân xử.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, tập 3, tr 120</ref><ref name=autogenerated2>Việt Nam sử lược, Chương II, Nam triều Bắc Triều, bản điện tử, tr 114</ref>
▲Theo [[Trần Trọng Kim]] trong sách Việt Nam sử lược:''Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua Nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao thiệp với nước kia thì thường là người ta mượn tiếng "vị nghĩa" mà làm những việc "vị lợi" mà thôi.''<ref name=autogenerated2 />
Năm [[1540]], [[Mạc Đăng Doanh]] chết, Mạc Đăng Dung lập cháu Phúc Hải lên nối ngôi. Mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở
122.</ref>
Tướng Nhà Minh bèn xin với vua Minh ban cho lịch, cho ấn chương và bảo ông giữ cẩn thận để quyết định sau. Năm [[1541]], Nhà Minh phong làm An Nam đô thống ty sứ, cho ấn bạc, vẫn cho thế tập. Còn 13 lộ cứ để tên cũ, đều lập phủ ty, đặt các chức như
==Cái chết==
|