Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mẫn Huệ Cung Hoà nguyên phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: → using AWB
Dòng 21:
Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi sinh ngày [[11 tháng 11]] (âm lịch) năm Vạn Lịch thứ 37 ([[1609]]), thuộc dòng tộc [[Bột Nhi Chỉ Cân|Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị]], bộ tộc [[Khoa Nhĩ Thấm]] [[Mông Cổ]]. [[Thanh sử cảo]] cùng các tài liệu chính thống đều không ghi lại tên thực của bà, bà được biết đến nhiều nhất qua cái tên ['''Hải Lan Châu'''; 海兰珠], Mãn văn ''Hairanju'', nghĩa là ''"trân ái chi nữ, luyến tiếc nữ hài"''. Sau đó là ['''Ô Vưu Đại'''; 烏尤黛]; Mông văn là ''Oyoodai'', Ô Vưu Đại ở Mông ngữ ý tứ là ''"mỹ ngọc, bích ngọc"''. Trong [[tiểu thuyết]] [[Độc bộ thiên hạ]], bà được gọi là ['''Cáp Nhật Châu Lạp'''; 哈日珠拉].
 
Dòng dõi của bà chính là hậu duệ trực hệ của [[Chuyết Xích Cáp Tát Nhi ]] - em trai cùng mẹ của [[Thành Cát Tư Hãn]]. Cao tổ phụ là [[Bát Địa Đạt Lãi]] (博地达赉), [[Bối lặc]] lâu đời của [[Khoa Nhĩ Thấm]] tộc và là hậu duệ đời thứ 16 của Chuyết Xích Hợp Tác Nhi. Tằng tổ phụ [[Nạp Mục Tắc]] (纳穆塞), kế vị Bối lặc, sinh ra [[Mãng Cổ Tư]] (莽古斯), được nhà Thanh truy phong ''Hòa Thạc Phúc Thân vương'' (和硕福亲王). Mãng Cổ Tư có một người con trai là Trung Thân vương [[Trại Tang]] (寨桑), sau kế vị trở thành [[Bối lặc]]; và một người con gái là [[Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu|Bát Nhĩ Tề Cát Đặc Triết Triết]].
 
Bối lặc Trại Tang có hai con trai với chính thất, Khoa Nhĩ Thẩm Tiểu phi, là Trác Lễ Khác Đồ Thân vương [[Ngô Khắc Thiện]] (吴克善) và Đạt Nhĩ Hán Ba Đồ Lỗ Thân vương [[Mãn Châu Tập Lễ]] (滿珠習禮); hai con gái là Hải Lan Châu và [[Hiếu Trang Hoàng Thái hậu|Bố Mộc Bố Thái]]. Xét vai vế, Hải Lan Châu là cháu gọi Triết Triết bằng cô và là tỷ tỷ ruột của Bố Mộc Bố Thái; ngoài ra gọi [[Hoàng Thái Cực]] vừa bằng dượng vừa bằng em rể, vì cả cô và em gái bà đều được gả Hoàng Thái Cực.
Dòng 31:
Năm Thiên Thông thứ 8 ([[1634]]), Thân vương [[Ngô Khắc Thiện]], lúc đó là Đài cát của Khoa Nhĩ Thấm, mang theo em gái Hải Lan Châu nhập cung. Đại Hãn Hoàng Thái Cực cùng các Phúc tấn bày yến nghênh tiếp, phong bà làm [[Trắc Phúc tấn]]<ref>《清入关前内国史院满文档案》记载:“天聪八年(1634年)十月十六日。科尔沁部乌克善洪台吉率诸臣送妹至。汗偕诸福晋迎至,设大宴纳之为福晋。”</ref>. Năm đó Hải Lan Châu 26 tuổi, trễ hơn nhiều so với lứa tuổi xuất giá lúc bấy giờ (khoảng từ 13 tuổi đến 18 tuổi), vì vậy hoàn toàn rất có khả năng bà từng kết hôn trước đó, sau đó trở thành [[góa phụ]] và được đưa vào hậu cung của Hoàng Thái Cực
 
Nhiều thuyết khác nhau lý giải việc này, tuy nhiên sử sách không chứng minh bất kỳ ghi chép nào, do vậy có rất nhiều giả thiết, nổi tiếng nhất là có thuyết tương truyền Hải Lan Châu và Bố Mộc Bố Thái là chị em cùng cha khác mẹ. Trong thuyết này, mẹ Ngô Khắc Thiện và Bố Mộc Bố Thái là vợ cả của Trại Tang, [[Phúc tấn|Đại phi]] của Khoa Nhĩ Thấm tộc; còn mẹ Mãn Châu Tập Lễ và Hải Lan Châu chỉ là thiếp. Khác với Bố Mộc Bố Thái, bà không được xem là [[Cách cách]] và bị mẹ của Bố Mộc Bố Thái ngược đãi từ bé. Bà phải làm việc như [[Nô lệ|nô tì]], mãi không xuất giá. Về sau, trong cung có lời đồn nữ nhi thuộc Khoa Nhĩ Thấm tộc không có phúc sinh con trai kế thừa Hậu Kim. Tình thế bất lợi, Trại Tang tiếp tục tiến cử con thứ Hải Lan Châu cho Đại Hãn.
 
Hải Lan Châu trở thành Phúc tấn được sủng ái nhất của Hoàng Thái Cực, vô cùng ân ái bà hơn hẳn Đại Phúc tấn Triết Triết và Bố Mộc Bố Thái. Đối với bà, Hoàng Thái Cực có thể nói là rêu rao chỉ sợ thiên hạ không biết tình yêu của mình nhiều thế nào.
Dòng 44:
.
 
Phụng thiên thừa vận, Khoan Ôn Nhân Thánh hãn chế viết, thiên địa thụ mệnh nhi lai, kí hữu hãn chủ nhất đại chi trị, tắc tất hữu thiên tứ phúc tấn tán tương vu trắc. Hãn ngự cực hậu, định chư phúc tấn chi danh hào, nãi cổ thánh hãn sở định chi đại điển. Kim ngã chính đại vị, đương tố cổ thánh hãn sở định đại điển.
 
Ngã sở ngộ Phúc tấn, Mông Cổ Khoa Nhĩ Thẩm bộ Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị, đặc tứ nhĩ sách văn, mệnh vi đông cung Quan Thư cung Đại Phúc tấn Thần phi. Nhĩ vụ dĩ thanh liêm đoan trang nhân hiếu khiêm cung chi nghĩa, cẩn tuân quốc quân phúc tấn huấn hối, vật vi ngã chi chí ý.|||Sách văn Quan Thư cung Thần phi}}